Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

2016-07-09 11:49 AM

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Có tiền sử giãn tĩnh mạch, viêm tĩnh mạch huyết khối, hay hội chứng sau viêm tĩnh mạch.

Vết loét không đều, khu trú ở vùng giữa ngoài của phía dưới cẳng chân và phía trên mắt cá.

Chân phù nề, vùng thương tổn giãn tĩnh mạch, nhiễm sắc tố, đỏ và có vảy (viêm da ứ trệ). Có các sẹo do thương tổn cũ để lại sẽ hỗ trợ cho chẩn đoán.

Nhận định chung

Bệnh nhân có tiền sử thiểu năng tĩnh mạch, hoặc giãn mạch rõ rệt, hoặc có tiền sử viêm tĩnh mạch huyết khối hay nhóm cơ bắp chân bị bất động dễ có nguy cơ bị bệnh. Viêm da ứ trệ với các tổn thương đỏ và ngứa thường có trước khi có loét. Tăng áp lực tĩnh mạch, phù nề, và thoát mạch các protein có trọng lượng phân tử cao như fibrinogen làm giảm oxy và chất dinh dưỡng tới nuôi dưỡng tổ chức. Các bạch cầu làm thương tổn các tế bào nội mạc mạch và dẫn tới làm chấn thương tổ chức.

Dấu hiệu và triệu chứng

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa. Những thay đổi này làm thay đổi màu sắc của da và làm cho da bị suy yếu, có khi làm cho da ở chân bị xơ teo. Đáy vết loét sạch, thường có tiết fibrin màu vàng và dễ dàng bị loại bỏ bằng cách đắp gặc nhưng thương tổn thường đòi hỏi phải được điều trị bằng phẫu thuật. Nếu các thương tổn không có liên quan tới ứ trệ, hoặc thương tổn khu trú ở ngón chân, ở chân hoặc phía trên đầu gối thì nên nghĩ tới chẩn đoán khác.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm tỉ mỉ hệ thống mạch máu của bệnh nhân là rất cần thiết như chụp Doppler để thăm dò thiểu năng tĩnh mạch. Ngày nay, người ta đang giới thiệu loại lưu biến đồ ánh sáng để do thời gian dự trữ của tĩnh mạch.

Chẩn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm mao mạch, viêm da mủ hoại tử, viêm loét động mạch, nhiễm khuẩn, chấn thương, côn trùng đốt và thiếu máu hồng cầu, hình liềm. Khi nghi ngờ chẩn đoán nên cắt sinh thiết ở bờ thương tổn chứ không làm ở đáy thương tổn, có thể có ích.

Phòng bệnh

Băng ép chân để giẫm phù nề là phương pháp quan trọng nhất để phòng bệnh. Băng ép có kết quả với áp lực 30 mm Hg ở phía dưới đầu gối và 40 mm Hg ở cổ chân. Không nên bằng ép cho bệnh nhân thiểu hàng động mach có chi số áp lực cánh tay - cổ tay dưới 0,7. Phương pháp băng ép liên tiềp bằng lớp hơi có hiệu qủa lớn.

Điều trị

Loét cẳng chân có thể mạn tính và thương tổn có thể làm cho cơ thể suy nhược trong khi rất nhiều thương tổn đáp ứng rất tốt với liệu pháp điều trị chuẩn, giá trị của phương pháp điều trị mới đã cho chúng ta một hy vọng về chăm sóc bệnh nhân có hiệu qủa trong tương lai.

Liệu pháp lại chỗ

Thực hiện liệu pháp bằng ép trước hết phải làm sạch vết loét. Cần phải giới thiệu cho bệnh nhân cách làm sạch vết loét bằng dung dịch muối hoặc các chất làm sạch như Saf-clens, hay Cara-klenz hằng ngày. Có thể dùng nạo hoặc kéo nhỏ để cắt bỏ các sợi fibrin vàng, có thể gây tê tại chỗ khi các vùng này đau.

Khi đáy vết loét đã sạch, vết loét được điều trị bằng metronidazol dạng gel để làm giảm sự phát triển của vi khuẩn gram (-) và giảm mùi hôi. Các vùng da viêm đỏ thì điều trị bằng mỡ steroid loại trung bình hoặc loại có tác dụng mạnh. Rồi sau đó che phủ vết loét bàng một mảnh gạc ướt (Duoderm, hay Cutinova) hoặc bột polyurethan (Allevyn) tiếp sau đó là bệnh nhân đắp bột nhão kẽm Unna. Hàng tuần thay bột đắp. Vết loét sẽ bắt đầu khỏi trong vòng một tuần, và sẽ khỏi hoàn toàn trong vòng 2 - 3 tháng. Một số vết loét đòi hỏi phải ghép da, người ta thường không ghép toàn bộ độ dày hay một phần độ dày mà chỉ ghép một nhúm (cạo một mảnh da nhỏ đặt nằm vào đáy) có thể có hiệu quả hơn. Kỹ thuật mới ghép nuôi cấy tế bào thượng bì đã mang lại kết qủa tốt cho một số trường hợp bị thất bại khi điều trị bằng phương pháp khác.

Liệu pháp toàn thân

Nếu loét có kèm với viêm mô tế bào thì cần phải cho kháng sinh, kết hợp hai loại kháng sinh là dicloxacillin 250 mg x 4 lần/ngày và Ciprofloxacin 500 mg x 2 lần/ngày theo đường uống sẽ có hiệu quả.

Tiên lượng

Sự kết hợp đeo tất ép với các chất rửa tân tiến hơn cho phép loét ứ trệ tĩnh mạch khỏi trong vòng vài tuần hay vài tháng. Các phương pháp tân tiến hơn có tác dụng tốt trong các trường hợp ngoan cố. Kiểm soát phù nề là rất cần thiết để phòng loét tái phát.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.