Loét da do tỳ đè

2016-07-09 11:00 AM

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Loét do tỳ đè là một loại đặc biệt của loét do máu cung cấp không đủ và dinh dưỡng của tổ chức kém, nguyên nhân do đè quá lâu, chủ yếu lên tổ chức xương và sụn. Phần da ở vùng xương cùng và hông là nơi hay bị loét nhất, nhưng loét do nằm lâu cũng có thể xảy ra ở vùng chẩm, tai, khủyu tay, gót chân và cổ chân. Bệnh xuất hiện rất nhanh ở bệnh nhân có tuổi, bị liệt, bị suy nhược, và bất tỉnh. Có thể có biến chứng nhiễm khuẩn nhẹ.

Chẩn đoán phân biệt

Đối vối loét ở bệnh nhân suy giảm miễm dịch cần chẩn đoán phân biệt với herpes simplex, đặc biệt là vết loét có bờ con sò, đại diện cho những vết trợt loét của herpes. Hiếm khi có loét ở vùng quanh hậu môn và đó là loét của ung thư da.

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột. Chốc loét hoại tử là một vết loét có liên quan tới nhiễm khuẩn, thường do Pseudomonas, và hay gặp ở người có thể trạng suy nhược. Tất cả các loét khi có nghi ngờ hoặc khi không lành được đều nên làm sinh thiết và nuôi cấy vi khuẩn.

Phòng bệnh

Liệu pháp quan trọng để phòng bệnh là phải có chế độ chăm sóc tốt, duy trì vệ sinh da và cung cấp năng lượng đầy đủ. Da và khăn trải giường nên giữ gìn sạch sẽ và khô ráo. Những bệnh nhân lơ đãng, hấp hối, liệt giường là những người dễ bị loét nên cần trở mình cho bệnh nhân thường xuyên (ít nhất mỗi giờ một lần) và kiểm tra những điểm tỳ đè, để xem có xuất hiện các điểm đỏ và mềm. Nên dùng các loại đệm chứa nước gối cao su thay đổi đệm áp suất hay đệm xốp có nhú dày để phòng và điều trị loét.

Điều trị

Có nhiều kiểu điều trị và nhiều hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân loét. Những thương tổn giai đoạn sớm có thể được điều trị bằng bột kháng sinh bôi và băng hấp phụ dính. Khi thương tổn sạch, cố thể dùng hydrocolloid rửa như DuoDerm. Các vết loét giai đoạn muộn đòi hỏi can thiệp ngoại khoa. Đệm xốp đặt phía dưới có thể tốt đối với một vài bệnh nhân. Nó cần được giặt thường xuyên. Rửa liên tục bằng iodochlorhydroxyquin trong bột nhão Lassar có thể có hiệu quả.

Đối với các vết loét có nhiễm khuẩn ở sâu, một nhiễm khuẩn hay gặp, thường đòi hỏi phải dùng kháng sinh toàn thân.

Bài viết cùng chuyên mục

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.