Trứng cá đỏ

2016-06-23 07:28 PM

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Rối loạn mạn tính ở mặt của những người trung niên và người già.

Các thành phần mạch máu lớn (đỏ da và dãn mạch) và có xu hướng đỏ bừng lên dễ dàng.

Đặc biệt có kết hợp tăng sản của các tuyến ở tổ chức phần mềm của mũi (trứng cá đỏ sùi mũi).

Có các thành phần dạng trứng cá (sẩn, mụn mủ và da nhờn).

Đánh giá chung

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Dùng thuốc bôi corticosteroid có thể làm thay đổi da bình thường của mặt thành những thực thể có thể nhận dạng được gọi là viêm da quanh miệng và trứng cá đỏ.

Lâm sàng

Hai gò má, mũi, và cằm có lúc toàn bộ mặt có thể có màu hồng. Có thể nhìn thấy một vài hoặc không thấy các nhân trứng cá. Các sẩn viêm là chủ yếu và có thể có mủ. Có thể kết hợp với viêm da đầu. Bệnh nhân thường kêu ca về nóng và rát từng đợt mỗi khi mặt đỏ lên. Không hay gặp ở những bệnh nhân có kết hợp với bệnh ở mắt như viêm bờ mi, viêm kết mạc. Đòi hỏi điều trị bằng kháng sinh.

Chẩn đoán phân biệt

Bệnh nhân trứng cá đỏ cần phân biệt với trứng cá thường bằng các yếu tố: tuổi, các thành phần mạch máu, và sự vắng mặt của nhân trứng cá. Ban da do brom và iod thường giống bệnh trứng cá đỏ nhưng hiếm gặp. Mầu hồng trong trứng cá đỏ do viêm và do dãn mạch tạo nên, và là dấu hiệu chỉ điểm cho chẩn đoán.

Điều trị

Điều trị bằng thuốc chỉ có tác dụng với các sẩn viêm, mụn mủ, và phần đỏ quanh chúng, Biện pháp duy nhất điều trị tốt cho hiện tuợng dãn mạch là dùng laser ánh sáng màu vàng như pulsed dye, hoặc laser màu đồng. Trứng cá sùi mũi chỉ đáp ứng điều trị bằng phẫu thuật.

Biện pháp đíều trị tại chỗ

Metronidazol 0,75% bôi 2 lần/ngày là loại thuốc bôi được chọn để điều trị trứng cá. Đôi khi có thể dùng thuốc bôi steroid loại nhẹ như hydrocortison 1% hoặc aclometason dipropionat 0,05% trong tuần đầu của điều trị. Nếu như không chịu được metrondazol, có thể dùng clindamycin. Erythromycin cũng có tác dụng tốt. Bệnh đáp ứng sau 5 - 8 tuần điều trị.

Biện pháp toàn thân

Tetracyclin hoặc erythromycin 250 - 500mg x 2 lần/ ngày uống khi đói, nên dùng khi không đáp ứng với thuốc bôi. Isortretinoin có thể có giá trị khi các biện pháp điều trị khác bị thất bại. Liều 0,5 - 1mg/kg/ngày uống trong 12 - 28 tuần.

Metronidazol 250 x 2 lần/ngày trong 3 tuần, có thể có giá trị nhưng hiếm khi cần. Tác dụng phụ có thể có, có thể có tác dụng giống disulfiram khi bệnh nhân dùng rượu.

Tiên lượng

Bệnh trứng cá đỏ có xu hướng tồn tại ngoan cố. Với chế độ điều trị như trên, bệnh có thể được điều trị đúng.

Bài viết cùng chuyên mục

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.