Một số bệnh da có bọng nước

2016-07-02 11:28 AM

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Có rất nhiều các rối loạn về da có biểu hiện sự hình thành bọng nước. Các bệnh này bao gồm dạng pemphigus bọng nước, dạng pemphigus sẹo, viêm da dạng herpes, herpes do thai nghén, và các rối loạn có bọng nước ít gặp khác bao gồm các bệnh bọng nước do cơ học tạo thành nhóm bệnh bong biểu bì mọng nước do sai sót trong quá trinh tổng hợp keratin biểu bì.

Dạng Pemyhigus bọng nước

Dạng pemyhigus bọng nước là một bệnh ngứa tương đối lành tính được đặc trưng bởi các bọng nước căng ở các vùng gấp nếp, điển hình ở người lớn tuổi, thường thuyên giảm trong 5 hoặc 6 năm với một tiến trinh đặc trưng bởi sự tăng và thuyên giảm bệnh. Khoảng một phần ba số người bị bệnh có các tổn thương ở miệng. Rất hiềm khi người trẻ tuổi bị mắc bệnh. Bệnh có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khảc nhau, bao gồm tổn thương khu trú, mụn nước, sùi, ban đỏ, đỏ da và u. Không có liên hệ về thống kê với các bệnh ác tính bên trong.

Việc chẩn đoán dựa trên phép sinh thiết và tiếp theo là hiển vi miễn dịch huỳnh quang. Dưới kính hiện vi sáng có thể thấy một bọhg nước dưới biểu bì. Bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, người tá thường tìm thấy IgG và C3, cùng lúc với các immunoglubulin khác và các thành phần bổ thể. Mặc dù rất ít khi phải dùng đến hiển vi điện tử huỳnh quang cho chẩn đoán nhưng nó định vị chất lắng của IgG và C3 vào lamen lucida của màng dáy. Có thể tìm thấy các kháng thể kháng màng đáy màng lưu hành trong huyết thanh của các bệnh nhân trong khoảng 70% các trường hợp.

Corticosteroid là cách điều trị được lựa chọn. Một số chuyên gia còn dùng thêm methotrexat, azathioprin hoặc cyclophosphamid. Trong một số trường hợp có thể dùng sulfapyridin hoặc dapson. Mặc dù tác dụng lúc ban đầu chậm hơn nhưng dùng tetracyclin hoặc erythromycin, 1 - 1,5g/ngày kết hợp với nicotinamid - chứ không phải là acid nicotinic (cho đến 1,5g/ngày) nếu bệnh nhân chịu thuốc có thể kiểm soát được bệnh đối với những bệnh nhân không thể dùng được corticosteroid. Steroid bôi hiệu lực cao có thể kiểm soát khu trú sớm các thương tổn.

Herpes do thai nghén

Herpes do thai nghén xảy ra khoảng 1 trên 50.000 đến 60.000 phụ nữ có thai. Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn. Bệnh thường xuất hiện vào tháng có thai thứ 5 hay thứ 6 hoặc có thể chậm lại cho tối sau khi sinh. Bệnh tự khỏi nhưng nó có thể tái phát vào lần có thai sau. Việc dùng estrogen hay progesteron hay lúc bắt dầu kinh nguyệt có thể kích thích phát bệnh. Nguy cơ đối với bà mẹ và thai nhi có vẻ ít nặng nề hơn là trước đây người ta vẫn nghĩ. Các bọng nước nằm ở dưới biểu bì với biểu hiện của các bạch cầu ái toan. Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp cho thấy có C3 ở vùng màng đáy trong hầu hết các trường hợp. IgG ít được tìm thấy hơn. Yếu tố herpes do thai nghén là một kháng thể IgG cố định bổ thể tìm thấy trong huyết thanh nhưng hiếm khi thấy trong vùng màng đáy.

Corticosteroid là cách điều trị được lựa chọn và đôi khi chỉ có hiệu quả khi bôi corticosteroid.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.