- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Ung thư tế bào đáy
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ung thư tế bào đáy ngày càng trở nên thông thường, đặc biệt là ở những người da trắng vào độ tuổi 20 - 30. Ung thư tế bào đáy gặp ở hầu hết các vùng da tiếp xúc với ánh nắng. Biểu hiện thường gặp nhất là các sẩn hoặc u (ung thư tế bào đáy) có thể có vảy ở tâm hoặc bị trợt (dạng nốt loét). Đôi khi các u có màu nâu xám hoặc có các chấm sắc tố (ung thư tế bào đáy sắc tố). Các nơ vi trung bì không sắc tố ở người da trắng lớn tuổi có thể giống ung thư tế bào đáy. Các tổn thương này phát triển chậm, thường đạt đường kính 1 - 2cm sau nhiều năm sinh trường. Nó có diện mạo như “sáp ngọc trai” với các mao mạch giãn dễ thấy mặc dù các tổn thương này cũng có thể có ở vùng da “bình thường”. Tính chất trong mờ hoặc màu ngọc trai của các tổn thương này chính là triệu chứng xác định nhất để chẩn đoán và khi da bị căng đặc điểm này có giá trị nhất. Dạng ít gặp hơn là dạng tổn thương cứng bì hay dạng tổn thương giông vết sẹo. Những dạng này hiếm, giảm sắc tố, các mảng hơi dày lên. Các tế bào đáy có thể xuất hiện màu hơi đỏ, các mảng hoi sáng (ung thư tế bào đáy bề mặt) thường là ở lưng.
Các bác sĩ lâm sàng cần phải kiểm tra da hàng ngày, tìm kiếm các vết sưng. Các đốm lớn và các tổn thương có vảy. Khi kiểm tra vùng mặt, phải quan sát mép mí mắt và giữa khoé mắt, mũi và nếp gấp cánh mũi, môi và vùng xung quanh và sau tai. Trong khi hầu như không bao giờ có di căn, liệu pháp điều trị ung thư tế bào đáy có thể gây ra các biến dạng thẩm mỹ ở các vùng này, đặc biệt là các tổn thương điều trị không đúng cách hoặc các tổn thương tái phát. Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong. Ung thư tế bào đáy ở khoé mắt đặc biệt nguy hiểm. Các tổn thương nghi ngờ là ung thư tế bào đáy cần phải được sinh thiết bằng dao lam hoặc dao sinh thiết. Sau đó liệu pháp điều trị nhằm mục đích trừ bệnh tận gốc với biến dạng thẩm mỹ tối thiểu, thường cắt và khâu có tỷ lệ táí phát là 5 - 10%. Kỹ thuật cũ ba kỳ, dùng thìa nạo và làm khô bằng điện có tỷ lệ tái phát cao hơn, phụ thuộc vào kỹ năng của bác sĩ phẫu thuật và thường lchông tối ưu đối với điều trị các tổn thương ở quanh mặt, mủi và tai. Sau 4 - 6 tuần lành vết mổ sẽ để lại sẹo quá sản, giảm sắc tố đồng thời phình to. Liệu pháp lạnh có thể cho tỷ lệ chữa khỏi tốt, nhưng thời gian lành bệnh lâu. Liệu pháp tia X có hiệu quả nhưng các khối u tái phát sau trị liệu khó điều trị hơn và trầm trọng hơn. Phẫu thuật MOHS là gồm cắt khối u, sau đó đánh dấu bờ tổn thương rồi ngay lập tức làm lạnh mảng thương tổn, kiểm tra giải phẫu bệnh và cắt lại vùng có u, cuối cùng đống vết thương. Phương pháp này cho tỷ lệ chữa khỏi cao nhất (98%) và phần mô bị mất đi là ít nhất. Đây là liệu pháp thích hợp đối với điều trị các khối u ở mí mắt, mũi và các tổn thương tái phát hoặc ở những nơi mà việc cắt mổ đòi hòi đảm bảo thẩm mỹ nhưng liệu pháp này rất tốn kém. Việc tiêm tại chỗ interferon nhiều lần chữa khỏi tới 80% các thương tổn u, thấp hơn tỷ lệ khỏi bằng liệu pháp cắt bỏ. Đây là một lĩnh vực thú vị đối với nghiên cứu sâu hơn. Cần phải tránh phơi nang để giảm khả năng bị bệnh mới và bệnh nhân phải theo dõi cứ 6 - 12 tháng một lần để tìm các tổn thương mới hay tổn thương tái phát.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục
Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
U mềm lây: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.