Bệnh nấm móng

2016-07-13 11:11 AM

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nấm móng là sự phá hủy một hay nhiều móng tay, chân (nhưng hiếm khi tất cả) do nhiễm nấm Trichophyton gây nên. Loại nấm hay gặp nhất là Trichophyton mentagrophytes và Trichophyton rubrum. Candida albican gây bệnh viêm móng do candida. Nấm "Saprophytic" ccũng có thể gây viêm móng.

Nấm móng thường không có triệu chứng. Móng bị mất độ bóng, giòn và quá sản, chất móng có thể khô và thậm chí xốp. Những mảnh vụn không đều của móng bị bệnh có thể bị vỡ. Chẩn đọán cận lâm sàng là bắt buộc. Móng nên làm sạch bằng hydroxid kali 10% và kiểm tra dưới kính hiển vi để xem có những nhánh sợi nấm và các đám bào tử nấm không. Nấm có thể nuôi cấy được trên môi trường Sabouraud. Nhuộm PAS trên tiêu bản sinh thiết cũng có thể tìm thấy nấm.

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân. Đối với nấm móng chân thường gây chán nản khi điều trị ở nhiều bệnh nhân và nên kiểm soát sự khó chịu này bằng cách xén bớt phần móng dày ở nền móng.

Griseofulvin dạng siêu nhỏ, 1 - 1,5g/ngày là thuốc được chọn đầu tiên để điều trị nấm móng. Đối với nấm móng chân đòi hỏi phải kéo dài thời gian điều trị 12 - 18 tháng. Ketoconazol 200mg/ngày đôi khi cũng được dùng để điều trị nấm móng, mặc dù thuốc không được tán thành dùng. Ketoconazol có thể tăng lên 400mg/ngày và sẽ tăng khả năng khỏi bệnh, nhưng tác dụng phụ không mong muốn (độc cho gan, tác dụng lên vỏ thượng thận và tác dụng chống androgen) cần phải được xém xét. Mặc dù không được chỉ định dùng, itraconazol, 200mg x 2 lần/ngày dùng trong 1 tuần mỗi tháng và trong 4 tháng có thể là phương pháp khác điều trị nấm móng chân và có ưu điểm là thuốc tồn tại ở nền móng sau khi đã ngừng điều trị. Tuy nhiên, tái phát vẫn hay xảy ra. Itraconazol có thể làm tăng các men của gan và tăng glyceride máu. Nên áp dụng nhiều phương pháp điều trị, ví dụ ngày nay người ta dùng fluconazol liều thấp một lần một tuần.

Móng nên mài hoặc dũa bớt hằng ngày (xuống tới đáy móng nếu cần thiết). Ciclopirox là một loại kem chống nấm có chứa muối pyridon ethanolamin và hình như thuốc ngấm vào móng tốt hơn các loại thuốc bôi khác. Nói chung không có loại thuốc bôi nào thật là có tác dụng. Tuy vậy, ngày nay người ta đang thử nghiệm tác dụng của những chất chống nấm trong tá dược mới.

Thậm chí khi móng đã sạch hết thương tổn sau những tháng điều trị, bệnh vẫn có thể tái phát ngay sau khi ngừng thuốc chống nấm toàn thân một thời gian ngắn. Thuốc bôi chống nấm có thể dùng duy trì sau khi đã dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Bài viết cùng chuyên mục

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.