- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học nước ngoài
- Viêm tủy ngang (Transverse Myelitis)
Viêm tủy ngang (Transverse Myelitis)
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm tủy ngang (Transverse myelitis - TM) là một chứng rối loạn hệ thần kinh do tình trạng viêm ở một đoạn của tủy sống. Viêm tủy là thuật ngữ chỉ tình trạng viêm của tủy sống; ngang là từ đơn giản mô tả vị trí của tình trạng viêm, ngang qua chiều rộng của tủy sống. Các đợt viêm tấy có thể làm tổn thương hoặc phá hủy myelin, một chất béo cách ly bọc ngoài các sợi tế bào thần kinh. Tổn thương này hình thành sẹo trong hệ thần kinh gây cản trở cho hoạt động giao tiếp giữa các dây thần kinh và tủy sống và phần còn lại của cơ thể.
Các triệu chứng của viêm tủy ngang gồm có mất chức năng tủy sống sau một vài giờ hoặc một vài tuần mắc bệnh. Các triệu chứng thường bắt đầu bằng cơn đau đột ngột ở phần lưng dưới, yếu bắp thịt hay những cảm giác bất thường ở các ngón chân và bàn chân có thể diễn tiến nhanh chóng tới những triệu chứng trầm trọng hơn, bao gồm tê liệt, bí tiểu, và mất khả năng điều khiển đại tràng.
Một số người mắc viêm tủy ngang hồi phục được chỉ còn lại một số nhỏ hoặc không còn các vấn đề dư thừa gì cả nhưng những người khác bị những tổn thương vĩnh viễn ảnh hưởng đến khả năng thực hiện những công việc bình thường của cuộc sống hàng ngày.
Tình trạng mất chất myelin thường xảy ra ở mức tổn thương ở ngực, gây ra những vấn đề về cử động ở chân và khả năng kiểm soát đại tràng và bàng quang nơi được các tín hiệu từ những đoạn dưới của tủy sống điều khiển.
Viêm tủy ngang xảy ra ở người lớn và trẻ nhỏ của cả hai giới và ở mọi chủng tộc. Chưa có bằng chứng chứng minh được rằng chứng viêm tủy sống là do bẩm chất di truyền. Số trường hợp mắc bệnh mới diễn ra hàng năm rơi vào độ tuổi 10 đến 19 và 30 đến 39. Khoảng 1.400 trường hợp mắc bệnh viêm tủy ngang được phát hiện hàng năm ở Hoa Kỳ, và có xấp xỉ 33.000 người Hoa Kỳ bị một số tàn tật có nguyên nhân từ viêm tủy ngang.
Cho đến nay người ta vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính xác của bệnh viêm tủy ngang. Tình trạng viêm tấy gây tổn thương đến tủy sống có thể do nhiễm trùng vi-rút, phản ứng miễn dịch bất thường, hoặc không đủ lượng máu chảy qua các mạch máu nằm trong tủy sống. Viêm tủy ngang cũng có thể là một biến chứng của bệnh giang mai, sởi, bệnh Lyme và một số chủng ngừa, bao gồm chủng ngừa thủy đậu và bệnh dại.
Giả thuyết về vi-rút
Viêm tủy ngang thường phát triển sau khi bị nhiễm vi-rút do varicella zoster (loại vi-rút gây nên bệnh thủy đậu và bệnh zona), bệnh giộp da không đau, vi-rút cự bào, vi-rút Epstein-Barr, cảm cúm, vi-rút echo, vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (human immunodeficiency virus - HIV), viêm gan A, hay sởi Đức. Các trường hợp nhiễm trùng da do vi khuẩn, nhiễm trùng tai giữa và viêm phổi do vi khuẩn cũng liên quan đến bệnh lý này.
Trong những trường hợp sau nhiễm bệnh viêm tủy ngang, người ta cho rằng hệ thống miễn dịch có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại các sinh thể lạ, đã tấn công nhầm chính các mô của cơ thể dẫn đến tình trạng viêm tấy và trong một số trường hợp làm tổn thương đến myelin trong tủy sống.
Viêm tủy ngang có thể là cấp tính (phát triển trong một vài giờ tới một vài ngày) hoặc hơi cấp tính (phát triển từ 1 đến 2 tuần). Có bốn đặc trưng căn bản của bệnh viêm tủy ngang xuất hiện là:
(1) yếu ở chân và tay.
(2) đau nhức.
(3) thay đổi cảm giác.
(4) loạn năng đại tràng và bàng quang. Phần lớn các người bệnh sẽ cảm thấy yếu theo nhiều cấp độ ở hai chân; một số cũng cảm thấy yếu ở các cánh tay. Bệnh tiến triển trong một vài tuần thường dẫn đến liệt hoàn toàn hai chân, người bệnh cần phải sử dụng xe lăn.
Đau nhức là triệu chứng chính của bệnh viêm tủy ngang xảy ra ở một nửa số người bệnh mắc chứng bệnh này. Cơn đau có thể tập trung ở vùng lưng dưới hoặc có thể có những cảm giác đau nhói lan tỏa xuống chân hoặc các cánh tay hoặc xung quanh thân trên. Tới 80 phần trăm những người mắc bệnh viêm tủy ngang cho biết rằng các vùng trở nên quá nhạy cảm với hành vi chạm, chẳng hạn như quần áo hoặc một cái chạm nhẹ của ngón tay cũng gây ra cảm giác khó chịu hoặc đau (bệnh lý này được gọi là dị giác). Nhiều người cũng trải qua tình trạng nhạy cảm quá mức đối với những thay đổi của nhiệt độ hoặc đối với tình trạng quá nóng hoặc quá lạnh.
Các bác sĩ chẩn đoán bệnh viêm tủy ngang bằng cách xem xét bệnh sử và thực hiện một chương trình khám hệ thần kinh kỹ lưỡng.
Phương thức điều trị
Như đối với nhiều chứng rối loạn của tủy sống hiện chưa có một phương thức chữa trị hữu hiệu cho những người bị mắc bệnh viêm tủy ngang. Các phương pháp điều trị được xây dựng nhằm kiểm soát và làm giảm bớt các triệu chứng và chủ yếu phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của sự ảnh hưởng của hệ thần kinh. Thông thường liệu pháp điều trị bắt đầu khi lần đầu tiên người bệnh trải qua các triệu chứng. Các bác sĩ thường kê toa liệu pháp corticosteroid trong suốt những tuần đầu tiên của bệnh để làm giảm mức độ viêm.
Sau liệu pháp ban đầu, phần quan trọng nhất trong quá trình điều trị bệnh viêm tủy ngang bao gồm việc duy trì các chức năng của cơ thể người bệnh trong khi vẫn hy vọng sự tự phục hồi hoàn toàn hoặc một phần của hệ thần kinh. Đôi khi cần phải sử dụng máy hô hấp để hỗ trợ người bệnh.
Những người bệnh có những triệu chứng cấp tính, chẳng hạn như tê liệt thường được điều trị trong bệnh viện hoặc trong một cơ sở phục hồi chức năng nơi có nhóm y khoa chuyên môn có thể ngăn ngừa hoặc điều trị những triệu chứng gây đau đớn cho các người bệnh tê liệt. Sau đó nếu người bệnh bắt đầu có thể phục hồi khả năng điều khiển các các chi, liệu pháp vật lý được áp dụng để giúp cải thiện sức khỏe của cơ, khả năng phối hợp động tác và hàng loại những cử động khác.
Dự đoán
Khả năng phục hồi từ bệnh viêm tủy ngang thường bắt đầu trong khoảng từ 2 đến 12 tuần tính từ thời điểm những triệu chứng đầu tiên xảy ra và có thể kéo dài đến tận 2 năm. Tuy nhiên nếu không có cải thiện gì trong vòng từ 3 đến 6 tháng khả năng phục hồi đáng kể khó có thể xảy ra. Khoảng một phần ba những người mắc bệnh viêm tủy ngang trải qua quá trình phục hồi tốt hoặc hoàn toàn từ những triệu chứng của họ. Một phần ba khác cho thấy khả năng phục hồi tương đối và còn lại một số chức năng thiếu hụt như dáng đi cứng, loạn cảm giác, và loạn tiểu. Một phần ba còn lại không thấy có hồi phục gì cả, phải sử dụng xe lăn và có thể phải nhờ những người khác thực hiện các chức năng căn bản của cuộc sống hàng ngày.
Viện Nghiên Cứu Quốc Gia về Những Rối Loạn Hệ Thần Kinh và Đột Quỵ (NINDS) hỗ trợ cuộc nghiên cứu để làm rõ vai trò của hệ thống miễn dịch trong TM và chứng bệnh hay rối loạn tự miễn dịch khác. Công việc khác tập trung vào các chiến lược chữa trị các chứng tổn thương tủy sống hủy myeli bao gồm những phương pháp tiếp cận để thực hiện phương pháp cấy tế bào. Những mục tiêu cuối cùng của các cuộc nghiên cứu này là nhằm hỗ trợ quá trình tái tạo tương tự ở con người và để phục hồi được chức năng cho những bệnh nhân bị tê liệt.
Source: National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke - NINDS), transverse myelitis Association (Transverse Myelitis Association).
Bài viết cùng chuyên mục
Sars CoV-2: những người đã tiêm chủng đầy đủ và chưa tiêm chủng có tải lượng vi rút tương tự nhau
Một nghiên cứu có trụ sở tại Hoa Kỳ gần đây đã so sánh tải lượng vi rút ở những người được tiêm chủng và chưa được tiêm chủng đã bị nhiễm biến thể delta của coronavirus 2 (SARS-CoV-2).
Vắc xin COVID Sputnik V của Nga: tại sao ngày càng nhiều quốc gia chuyển sang sử dụng
Sputnik V sử dụng nền tảng vectơ vi-rút - sử dụng vi-rút vô hại để đưa vật chất di truyền từ vi-rút gây COVID vào hệ thống miễn dịch - giống như vắc-xin Oxford / AstraZeneca và Johnson & Johnson.
U nang buồng trứng có thể trở thành ung thư?
U nang buồng trứng tương đối phổ biến ở những người có chu kỳ kinh vì u nang nhỏ có thể phát triển tự nhiên như là một phần của chu kỳ kinh nguyệt
Tại sao nên nói chuyện với con chó
Câu nói nhịp nhàng phổ biến trong tương tác của con người với chó trong văn hóa phương Tây, nhưng không có khảng định nào về việc liệu nó có mang lại lợi ích
Giảm cân: 14 cách mà không cần chế độ ăn uống hoặc tập thể dục
Hiểu cách chuẩn bị bữa ăn và phát triển kỹ năng tốt hơn trong nhà bếp có thể là một cách mạnh mẽ để giảm cân mà không giảm lượng thức ăn
Virus corona: điều trị những người bị nhiễm bệnh
Virus corona mới là một loại virus, không nên sử dụng kháng sinh phòng ngừa hoặc điều trị, tuy nhiên, có thể dùng kháng sinh vì có thể đồng nhiễm vi khuẩn
Hành vi bốc đồng: điều gì xảy ra trong não?
Bốc đồng không phải lúc nào cũng là điều xấu, nhưng nó thường có thể dẫn đến những hậu quả không mong muốn, hoặc không lường trước được
Quái thảo mềm: giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo
Công dụng, chỉ định và phối hợp, đồng bào địa phương Sapa dùng lá giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo
Đột phá kháng sinh có thể báo hiệu sự kết thúc của các siêu khuẩn kháng thuốc
Nhiều loại thuốc kháng sinh được sử dụng ngày nay được phát hiện cách đây nhiều thập kỷ, và kể từ đó, vi khuẩn đã tiến hóa thành các chủng kháng thuốc
Covid-19: tổn thương phổi và tim khi mắc bệnh
Trong các mô hình động vật khác nhau về ALI, chuột loại trực tiếp ACE2 cho thấy tính thấm thành mạch được tăng cường, tăng phù phổi, tích tụ bạch cầu trung tính và chức năng phổi xấu đi rõ rệt so với chuột đối chứng kiểu hoang dã.
Lạm dụng tình cảm: những ảnh hưởng là gì?
Lạm dụng tình cảm, không bao giờ là lỗi của người trải qua nó, có thể gây ra cả hậu quả dài hạn, và ngắn hạn
Đột quỵ: đã xác định được yếu tố nguy cơ di truyền
Một nhóm các nhà nghiên cứu Geisinger đã xác định một biến thể di truyền phổ biến là một yếu tố nguy cơ gây đột quỵ, đặc biệt là ở những bệnh nhân trên 65 tuổi.
Dịch truyền tĩnh mạch áp lực keo và phù nề mô: cuộc tranh cãi về tinh thể và keo
Các thay đổi trong mô hình, đã gợi ý rằng phần lớn các tổn thương tế bào, xảy ra trong quá trình hồi sức, và không phải trong thời kỳ thiếu máu cục bộ
Mức đường huyết bình thường có thể không bình thường sau khi ăn
Xét nghiệm hemoglobin glycated thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh tiểu đường, và nó dựa vào mức đường huyết trung bình trong khoảng thời gian 3 tháng
Tâm lý ích kỷ: điều gì nằm ở giá trị cốt lõi?
Đạo đức giả, lừa dối, đạo đức buông thả, tự ái, tâm lý quyền, tâm thần, tính bạo dâm, tự quan tâm, và bất bình là tất cả các tính cách tiêu cực được công nhận trong tâm lý học
Mức đường huyết khỏe mạnh là gì?
Những người mắc bệnh tiểu đường cần phải đặc biệt cẩn thận để duy trì mức đường huyết ổn định, nhưng những người không mắc bệnh tiểu đường cũng nên tuân
Tuần mang thai: những điều cần biết
Tuần mang thai được nhóm thành ba tam cá nguyệt, mỗi người có các mốc y tế cho cả bà mẹ và em bé
Cholesterol HDL tăng có tốt không?
Một số thử nghiệm lâm sàng đã thử nghiệm các loại thuốc mới để tăng cholesterol HDL, nhưng cho đến nay kết quả đã thất vọng
Bệnh tim ở những người có thu nhập thấp: mất ngủ có thể góp phần gây ra
Cố gắng giảm tiếng ồn, với cửa sổ bằng kính đôi, hạn chế giao thông, và không xây nhà bên cạnh sân bay hoặc đường cao tốc để ngủ ngon hơn
Năm lời khuyên để tránh biến chứng bệnh tiểu đường
Khám sức khỏe thường xuyên nên bao gồm việc kiểm tra sự hiện diện của bất kỳ biến chứng tiểu đường cũng như cách để giảm nguy cơ biến chứng.
Thể dục và tuổi thọ: bài tập quá nhiều có gây hại không?
Thể dục nhịp điệu là thứ mà hầu hết bệnh nhân có thể kiểm soát, và chúng tôi thấy trong nghiên cứu của chúng tôi không có giới hạn về tập thể dục quá nhiều
Thể dục khi mang thai: tăng cường trao đổi chất của trẻ có thể được cải thiện
SOD3 là một loại protein có nguồn gốc từ nhau thai do tập thể dục kích hoạt một con đường tín hiệu cụ thể kiểm soát quá trình khử methyl DNA trong gan của trẻ, cải thiện một số khía cạnh của quá trình chuyển hóa glucose.
Buồn nôn khi mang thai: những điều cần biết
Mức độ nghiêm trọng của buồn nôn thay đổi từ lần mang thai này đến lần mang thai khác, một số người cảm thấy hơi buồn nôn, người khác có thể nôn mửa chỉ vào buổi sáng
Quất: thuốc ngậm chữa ho viêm họng
Ngoài việc dùng quả để ăn uống và làm mứt, làm nước quả nấu đông, xirô, người ta còn dùng quả làm thuốc, mứt Kim quất chữa các chứng ách nghịch, giúp sức tiêu hoá cho dạ dày
Giống và khác nhau của Vắc xin DNA so với mRNA
Mặc dù vắc xin DNA và mRNA có một số điểm tương đồng, nhưng có một số điểm đáng chú ý sự khác biệt giữa các vắc xin di truyền này, vắc xin mRNA cung cấp vật liệu di truyền cho tế bào người để tổng hợp thành một hoặc nhiều protein vi rút hoặc vi khuẩn.