Viêm tủy ngang (Transverse Myelitis)

2012-11-19 09:33 PM
Tình trạng mất chất myelin thường xảy ra ở mức tổn thương ở ngực, gây ra những vấn đề về cử động ở chân và khả năng kiểm soát đại tràng và bàng quang

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm tủy ngang (Transverse myelitis - TM) là một chứng rối loạn hệ thần kinh do tình trạng viêm ở một đoạn của tủy sống. Viêm tủy là thuật ngữ chỉ tình trạng viêm của tủy sống; ngang là từ đơn giản mô tả vị trí của tình trạng viêm, ngang qua chiều rộng của tủy sống. Các đợt viêm tấy có thể làm tổn thương hoặc phá hủy myelin, một chất béo cách ly bọc ngoài các sợi tế bào thần kinh. Tổn thương này hình thành sẹo trong hệ thần kinh gây cản trở cho hoạt động giao tiếp giữa các dây thần kinh và tủy sống và phần còn lại của cơ thể.

Các triệu chứng của viêm tủy ngang gồm có mất chức năng tủy sống sau một vài giờ hoặc một vài tuần mắc bệnh. Các triệu chứng thường bắt đầu bằng cơn đau đột ngột ở phần lưng dưới, yếu bắp thịt hay những cảm giác bất thường ở các ngón chân và bàn chân có thể diễn tiến nhanh chóng tới những triệu chứng trầm trọng hơn, bao gồm tê liệt, bí tiểu, và mất khả năng điều khiển đại tràng.

Một số người mắc viêm tủy ngang hồi phục được chỉ còn lại một số nhỏ hoặc không còn các vấn đề dư thừa gì cả nhưng những người khác bị những tổn thương vĩnh viễn ảnh hưởng đến khả năng thực hiện những công việc bình thường của cuộc sống hàng ngày.

Tình trạng mất chất myelin thường xảy ra ở mức tổn thương ở ngực, gây ra những vấn đề về cử động ở chân và khả năng kiểm soát đại tràng và bàng quang nơi được các tín hiệu từ những đoạn dưới của tủy sống điều khiển.

Viêm tủy ngang xảy ra ở người lớn và trẻ nhỏ của cả hai giới và ở mọi chủng tộc. Chưa có bằng chứng chứng minh được rằng chứng viêm tủy sống là do bẩm chất di truyền. Số trường hợp mắc bệnh mới diễn ra hàng năm rơi vào độ tuổi 10 đến 19 và 30 đến 39. Khoảng 1.400 trường hợp mắc bệnh viêm tủy ngang được phát hiện hàng năm ở Hoa Kỳ, và có xấp xỉ 33.000 người Hoa Kỳ bị một số tàn tật có nguyên nhân từ viêm tủy ngang.

Cho đến nay người ta vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính xác của bệnh viêm tủy ngang. Tình trạng viêm tấy gây tổn thương đến tủy sống có thể do nhiễm trùng vi-rút, phản ứng miễn dịch bất thường, hoặc không đủ lượng máu chảy qua các mạch máu nằm trong tủy sống. Viêm tủy ngang cũng có thể là một biến chứng của bệnh giang mai, sởi, bệnh Lyme và một số chủng ngừa, bao gồm chủng ngừa thủy đậu và bệnh dại.

Giả thuyết về vi-rút

Viêm tủy ngang thường phát triển sau khi bị nhiễm vi-rút do varicella zoster (loại vi-rút gây nên bệnh thủy đậu và bệnh zona), bệnh giộp da không đau, vi-rút cự bào, vi-rút Epstein-Barr, cảm cúm, vi-rút echo, vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở người (human immunodeficiency virus - HIV), viêm gan A, hay sởi Đức. Các trường hợp nhiễm trùng da do vi khuẩn, nhiễm trùng tai giữa và viêm phổi do vi khuẩn cũng liên quan đến bệnh lý này.

Trong những trường hợp sau nhiễm bệnh viêm tủy ngang, người ta cho rằng hệ thống miễn dịch có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại các sinh thể lạ, đã tấn công nhầm chính các mô của cơ thể dẫn đến tình trạng viêm tấy và trong một số trường hợp làm tổn thương đến myelin trong tủy sống.

Viêm tủy ngang có thể là cấp tính (phát triển trong một vài giờ tới một vài ngày) hoặc hơi cấp tính (phát triển từ 1 đến 2 tuần). Có bốn đặc trưng căn bản của bệnh viêm tủy ngang xuất hiện là:

(1) yếu ở chân và tay.

(2) đau nhức.

(3) thay đổi cảm giác.

(4) loạn năng đại tràng và bàng quang. Phần lớn các người bệnh sẽ cảm thấy yếu theo nhiều cấp độ ở hai chân; một số cũng cảm thấy yếu ở các cánh tay. Bệnh tiến triển trong một vài tuần thường dẫn đến liệt hoàn toàn hai chân, người bệnh cần phải sử dụng xe lăn.

Đau nhức là triệu chứng chính của bệnh viêm tủy ngang xảy ra ở một nửa số người bệnh mắc chứng bệnh này. Cơn đau có thể tập trung ở vùng lưng dưới hoặc có thể có những cảm giác đau nhói lan tỏa xuống chân hoặc các cánh tay hoặc xung quanh thân trên. Tới 80 phần trăm những người mắc bệnh viêm tủy ngang cho biết rằng các vùng trở nên quá nhạy cảm với hành vi chạm, chẳng hạn như quần áo hoặc một cái chạm nhẹ của ngón tay cũng gây ra cảm giác khó chịu hoặc đau (bệnh lý này được gọi là dị giác). Nhiều người cũng trải qua tình trạng nhạy cảm quá mức đối với những thay đổi của nhiệt độ hoặc đối với tình trạng quá nóng hoặc quá lạnh.

Các bác sĩ chẩn đoán bệnh viêm tủy ngang bằng cách xem xét bệnh sử và thực hiện một chương trình khám hệ thần kinh kỹ lưỡng.

Phương thức điều trị

Như đối với nhiều chứng rối loạn của tủy sống hiện chưa có một phương thức chữa trị hữu hiệu cho những người bị mắc bệnh viêm tủy ngang. Các phương pháp điều trị được xây dựng nhằm kiểm soát và làm giảm bớt các triệu chứng và chủ yếu phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của sự ảnh hưởng của hệ thần kinh. Thông thường liệu pháp điều trị bắt đầu khi lần đầu tiên người bệnh trải qua các triệu chứng. Các bác sĩ thường kê toa liệu pháp corticosteroid trong suốt những tuần đầu tiên của bệnh để làm giảm mức độ viêm.

Sau liệu pháp ban đầu, phần quan trọng nhất trong quá trình điều trị bệnh viêm tủy ngang bao gồm việc duy trì các chức năng của cơ thể người bệnh trong khi vẫn hy vọng sự tự phục hồi hoàn toàn hoặc một phần của hệ thần kinh. Đôi khi cần phải sử dụng máy hô hấp để hỗ trợ người bệnh.

Những người bệnh có những triệu chứng cấp tính, chẳng hạn như tê liệt thường được điều trị trong bệnh viện hoặc trong một cơ sở phục hồi chức năng nơi có nhóm y khoa chuyên môn có thể ngăn ngừa hoặc điều trị những triệu chứng gây đau đớn cho các người bệnh tê liệt. Sau đó nếu người bệnh bắt đầu có thể phục hồi khả năng điều khiển các các chi, liệu pháp vật lý được áp dụng để giúp cải thiện sức khỏe của cơ, khả năng phối hợp động tác và hàng loại những cử động khác.

Dự đoán

Khả năng phục hồi từ bệnh viêm tủy ngang thường bắt đầu trong khoảng từ 2 đến 12 tuần tính từ thời điểm những triệu chứng đầu tiên xảy ra và có thể kéo dài đến tận 2 năm. Tuy nhiên nếu không có cải thiện gì trong vòng từ 3 đến 6 tháng khả năng phục hồi đáng kể khó có thể xảy ra. Khoảng một phần ba những người mắc bệnh viêm tủy ngang trải qua quá trình phục hồi tốt hoặc hoàn toàn từ những triệu chứng của họ. Một phần ba khác cho thấy khả năng phục hồi tương đối và còn lại một số chức năng thiếu hụt như dáng đi cứng, loạn cảm giác, và loạn tiểu. Một phần ba còn lại không thấy có hồi phục gì cả, phải sử dụng xe lăn và có thể phải nhờ những người khác thực hiện các chức năng căn bản của cuộc sống hàng ngày.

Viện Nghiên Cứu Quốc Gia về Những Rối Loạn Hệ Thần Kinh và Đột Quỵ (NINDS) hỗ trợ cuộc nghiên cứu để làm rõ vai trò của hệ thống miễn dịch trong TM và chứng bệnh hay rối loạn tự miễn dịch khác. Công việc khác tập trung vào các chiến lược chữa trị các chứng tổn thương tủy sống hủy myeli bao gồm những phương pháp tiếp cận để thực hiện phương pháp cấy tế bào. Những mục tiêu cuối cùng của các cuộc nghiên cứu này là nhằm hỗ trợ quá trình tái tạo tương tự ở con người và để phục hồi được chức năng cho những bệnh nhân bị tê liệt.

Source: National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke - NINDS), transverse myelitis Association (Transverse Myelitis Association).

Bài viết cùng chuyên mục

Vi rút Corona 2019: lịch sử bệnh lý

Có thể tìm thấy thông tin và hướng dẫn từ WHO về sự bùng phát của coronavirus mới 2019 nCoV được báo cáo lần đầu tiên từ Vũ Hán, Trung Quốc

Bệnh tiểu đường: xử lý các trường hợp khẩn cấp

Trong những trường hợp hiếm hoi, lượng đường trong máu cũng có thể leo thang lên một mức độ cao nguy hiểm, gây ra các vấn đề như nhiễm ceton acid và hôn mê tăng thẩm thấu

Cố gắng để trở nên hoàn hảo có thể gây ra lo lắng

Không ai có thể là người cầu toàn về mọi thứ, hãy suy nghĩ về các mục tiêu và dự án hiện tại, và chỉ định các ưu tiên của chúng

Dịch truyền tĩnh mạch: điều trị nhiễm toan chuyển hóa

Một nghiên cứu gần đây, đã ghi nhận rằng, natri bicarbonate được cung cấp trong các liều bolus nhỏ, không dẫn đến nhiễm toan nội bào

Dịch truyền tĩnh mạch: Plasma tươi đông lạnh

Nguy cơ truyền mầm bệnh bằng huyết tương tươi đông lạnh cũng giống như đối với máu toàn phần

COVID-19 nghiêm trọng: một số trường hợp liên quan đến đột biến gen hoặc kháng thể tấn công cơ thể

Ít nhất 3,5 phần trăm bệnh nhân nghiên cứu bị COVID-19 nghiêm trọng, căn bệnh do coronavirus mới gây ra, có đột biến gen liên quan đến quá trình bảo vệ kháng vi-rút.

Tại sao bệnh tiểu đường gây đau đầu?

Một cơn đau đầu có thể chỉ ra rằng lượng đường trong máu quá cao, được gọi là tăng đường huyết, hoặc quá thấp, được gọi là hạ đường huyết

Dùng aspirin: người già khỏe mạnh không được hưởng lợi

Đối với người cao tuổi, không có tiền sử bệnh tim mạch trước đó, lợi ích của việc dùng aspirin là rất nhỏ, và không vượt quá rủi ro

Viêm phế quản: thời gian kéo dài bao lâu để hết?

Viêm phế quản cấp tính, thường kéo dài 3 đến 10 ngày, ho có thể kéo dài trong vài tuần, viêm phế quản mãn tính, kéo dài trong nhiều tháng

Nguyên nhân gây chóng mặt và nôn mửa?

Chóng mặt và nôn mửa là cả hai triệu chứng không đặc hiệu, có nghĩa là chúng có thể có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn

Hắt hơi và ho khi mang thai có ảnh hưởng đến em bé không?

Trong thời gian mang thai, hệ thống miễn dịch của cơ thể phản ứng chậm hơn và yếu hơn, bởi vì nó không muốn nhầm lẫn em bé với một thứ gì đó có hại.

Mẹo để có giấc ngủ ngon hơn

Những cách khác để tối ưu hóa môi trường xung quanh cho giấc ngủ bao gồm loại bỏ tivi, điện thoại và bất kỳ thiết bị văn phòng nào trong phòng ngủ

COVID 19: một số trường hợp nghiêm trọng ở người trẻ tuổi

Có nhiều lý do, để mọi người ở mọi lứa tuổi thận trọng, nhưng không phải vì sự hiểu biết của chúng ta, về người dễ bị nhiễm virus nhất đang thay đổi.

Dịch truyền tĩnh mạch: Albumin

Sau khi phân phối ban đầu vào khoang plasma, albumin cân bằng giữa các khoang nội mạch và ngoại mạch, trong khoảng thời gian 7 đến 10 ngày

Vi rút Corona 2019 mới: quản lý các trường hợp được xác nhận nhiễm

Các trường hợp được xác nhận báo cáo là 2019 nCoV, tiến hành sớm quản lý trong đợt bùng phát, chăm sóc và điều trị là rất quan trọng

Tác dụng phụ của vắc xin Covid-19: phải làm gì khi gặp phải

Bất kỳ ai lo lắng về tác dụng phụ của việc tiêm chủng có thể tự hỏi họ nên dùng thuốc không kê đơn trước khi chủng ngừa, để tránh bất kỳ tác dụng phụ nào trước khi chúng xảy ra.

Đột quỵ: đã xác định được yếu tố nguy cơ di truyền

Một nhóm các nhà nghiên cứu Geisinger đã xác định một biến thể di truyền phổ biến là một yếu tố nguy cơ gây đột quỵ, đặc biệt là ở những bệnh nhân trên 65 tuổi.

Men chuyển angiotensine 2 (ACE2): có liên quan đến tổn thương đa cơ quan trong COVID-19

Cũng như SARS và COVID-19, tổn thương nội tạng cũng thường được quan sát thấy ở MERS, đặc biệt là đường tiêu hóa và thận, trong khi tỷ lệ tổn thương tim cấp tính ít phổ biến hơn.

Tắm nước nóng: giảm viêm và cải thiện chuyển hóa đường

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu xem liệu ngâm mình trong bồn tắm nước nóng có ảnh hưởng đến rối loạn chuyển hóa như bệnh tiểu đường hay không

Sức khỏe sinh dục cho phụ nữ (Sexuality for Women)

Việc bôi trơn âm đạo cũng có vấn đề của nó. Một số phụ nữ SCI cho biết rằng họ bị phản ứng với chất bôi trơn còn những người khác thì lại không.

Nhân cách quái dị: ảo tưởng về sự vĩ đại?

Các yếu tố văn hóa có thể ảnh hưởng đến nội dung của ảo tưởng của một người, điều này là do văn hóa ảnh hưởng đến kiến thức và những gì họ tin về thế giới

Kháng kháng sinh: nó trở thành mối đe dọa toàn cầu đối với sức khỏe cộng đồng?

Thuốc kháng sinh là loại thuốc làm chậm hoặc phá hủy sự phát triển của vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng

Lựa chọn sinh sau khi sinh mổ trước đó: các kết quả khoa học

Cố gắng sinh đường âm đạo, có liên quan đến việc tăng nguy cơ người mẹ sinh con nghiêm trọng, và các vấn đề liên quan đến sau sinh, so với việc sinh mổ

Điều gì gây ra choáng váng?

Trải qua một số cơn choáng váng là bình thường, trong hầu hết các trường hợp, các cơn này sẽ trôi qua nhanh chóng, đặc biệt nếu ngồi hoặc nằm nghỉ ngơi

Hội chứng Guillain Barré (Guillain Barré Syndrome)

Hiện không có phương thức chữa trị hội chứng Guillain Barre, nhưng các liệu pháp điều trị có thể làm nhẹ bớt mức độ trầm trọng của bệnh và làm tăng quá trình hồi phục