- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Hẹp hở van ba lá
Hẹp hở van ba lá
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hẹp van ba lá
Hẹp van ba lá thường do thấp tim gây ra. Nên nghi ngờ hẹp van ba lá khi "suy tim phải" xuất hiện trong đợt tiến triển của bệnh van hai lá, biểu hiện bằng gan to, cổ trướng và phù phụ thuộc. Tiếng rung tâm trương điển hình dọc theo bờ trái xương ức giống như trong hẹp van hai lá. Trong nhịp xoang thấy gan đập ở thì tâm thu.
Về mặt huyết động có thể thấy sự chênh áp thì tâm trương qua van ba lá tới 15mHg kết hợp với tăng áp lực ở nhĩ phải và tĩnh mạch cảnh, với các sóng a lớn và hõm y xuống chậm do sự đổ đầy thất phải chậm gây ra.
Siêu âm Doppler thường cho thấy các tổn thương và thăm dò Doppler có thể đo được độ chênh áp; các tổn thương van kèm theo cũng có thể được phát hiện. Thông tim phải cho phép chẩn đoán xác định. Hẹp van ba lá mắc phải có thể được tách van bằng thủ thuật rạch mở nhưng thường cần phải thay van giả.
Mặc dù kinh nghiệm còn có hạn song nong van bằng bóng có thể là phương thức lựa chọn đầu tiên ở nhiều bệnh nhân.
Hở van ba lá
Hở van ba lá có thể xảy ra trong các tình huống khác nhau hơn là bệnh lý tại van ba lá. Thông thường nhất là tăng gánh thất phải, hậu quả của suy thất trái do bất kỳ nguyên nhân nào. Hở van ba lá cũng có thể kết hợp với nhồi máu cơ tim thất phải và nhồi máu cơ tim sau dưới. Viêm nội tâm mạc ở van ba lá và hở van ba lá là thường gặp trong những trường hợp tiêm chích thuốc phiện đường tĩnh mạch. Các nguyên nhân khác nhau bao gồm hội chứng carcinoid, luput ban đỏ hệ thống và thoái hóa nhầy van (kết hợp với sa van hai lá). Hội chứng Ebstein là bất thường bẩm sinh của van ba lá, thường gặp ở người lớn có buồng tim phải to do hở van ba lá.
Các dấu hiệu và triệu chứng của hở van ba lá giống hệt các triệu chứng của suy thất phải do mọi nguyên nhân gây nên. Trong những trường hợp có bệnh van hai lá, tổn thương van ba lá có thể được nghi ngờ trên cơ sở đợt khởi phát sớm của suy tim phải và tiếng thổi tâm thu thô ráp, mạnh dọc theo phần dưới bờ trái xương ức, nó tách khỏi tiếng thổi của van hai lá và thường tăng lên trong và sau khí hít vào. Về mặt huyết động, hở van ba lá được đặc trưng bằng sóng tâm thu phụt ngược lớn (v) ở nhĩ phải và tĩnh mạch cảnh, cùng với một hõm y xuống nhanh và một hõm x nhỏ hoặc không có. Sóng phụt ngược giống như tiếng thổi tâm thu tăng lên khi hít vào và kích thước của nó tùy thuộc vào kích thước của nhĩ phải. Trong hở van ba lá, đặc biệt khi có rung thất phải có thể thấy tiếng thứ ba khi hít vào.
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng hoặc các tổn thương tim trái khác có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị. Khi cần phải phẫu thuật, sửa van hoặc tạo hình van ba lá là thích hợp hơn thay van. Hiện nay thay van ba lá thường ít làm.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm màng ngoài tim
Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.
Cơ chế rối loạn nhịp tim
Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.
Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.
Bệnh tim và thai nghén
Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Hẹp van động mạch chủ
Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Hẹp eo động mạch chủ
Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.
Điều trị sau nhồi máu cơ tim
Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Rung nhĩ và cuồng động nhĩ
Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.
Suy tim: chẩn đoán và điều trị
Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.
Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp
Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất
Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Hẹp động mạch phổi
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.
Còn ống động mạch
Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.