Hở van hai lá

2016-10-25 11:17 AM

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm cơ bản trong chẩn đoán

Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào các nguyên nhân khác nhau.

Có thể không có triệu chứng trong nhiều năm (hoặc cả cuộc đời) hoặc có thể gây ra suy tim trái.

Tiếng thổi toàn tâm thu ở mỏm, lan tới nách, có thể kết hợp tiếng thứ ba.

Điện tâm đồ cho thấy những bất thường của nhĩ trái hoặc rung nhĩ và dày thất trái. X quang ngực thấy nhĩ trái và thất trái to. Siêu âm Doppler xác nhận chẩn đoán và mức độ nặng của bệnh.

Nhận định chung

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở. Bệnh thấp tim không còn là nguyên nhân thường gặp nhất của hở van hai lá ở các nước phát triển mà thường do các tổn thương khác gồm cả thoái hóa nhầy (như sa van hai lá có hoặc không có bệnh tổ chức liên kết như hội chứng Marfan), viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, và rối loạn chức năng dưới van (do rối loạn chức năng cơ nhú hoặc đứt dây chằng cột cơ). Các khối u ở tim chủ yếu là u nhầy nhĩ trái cũng là một nguyên nhân ít gặp gây hở van hai lá.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Trong thì tâm thu, thất trái của lá van không đóng kín được bình thường và máu sẽ được tống vào nhĩ trái cũng như qua van động mạch chủ. Hậu quả là tăng gánh thể tích đối với thất trái và biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào tốc độ phát triển của tổn thương. Trong hở cấp tính, áp lực nhĩ trái tăng đột ngột dẫn tới phù phổi cấp nếu như hở nặng. Khi hở xảy ra từ từ, nhĩ trái to ra dần dần, nhưng áp lực tĩnh mạch phổi và mao mạch phổi chỉ tăng lên thoáng qua trong khi gắng sức. Khó thở khi gắng sức và mệt mỏi tiến triển dần dần qua nhiều năm. Hở van hai lá cũng giống như hẹp van hai lá sẽ dẫn đến rung nhĩ, nhưng rối loạn nhịp này ít khi dẫri tới ứ máu cấp tính và chỉ dưới 5% số bệnh nhân có tắc động mạch ngoại biên. Hở van hai lá thường dẫn tới viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.

Về mặt lâm sàng hở van hai lá được đặc trưng bằng tiếng thổi toàn tâm thu nghe rõ nhất ở mỏm, lan tới nách và đôi khi tới đáy tim; thất trái đập mạnh và động mạch cảnh nảy nhanh, và tiếng tim thứ ba nghe rõ rệt. Nhĩ trái thường to đáng kể trong hở van hai lá mạn tính; mức độ to của thất trái thường phản ánh mức độ nặng của van hai lá. Sự calci hóa các lá van hai lá ít thấy hơn trong hẹp van hai lá đơn thuần. Cũng có thể thấy động mạch phổi giãn trên phim X quang ngực. Về mặt huyết động, tăng gánh thể tích thất trái có thể dẫn tới suy thất trái và giảm cung lượng tim nhưng trong nhiều năm áp lực cuối tâm trương thất trái và cung lượng tim vẫn bình thường khi nghỉ ngơi ngay cả khi có sự tăng đáng kể thể tích thất trái.

Hở van hai lá không do thấp có thể xuất hiện đột ngột, như trong rối loạn chức năng cơ nhú sau nhồi máu cơ tim, thủng lá van trong viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn hoặc đứt dây chằng cột cơ trong sa van hai lá. Trong hở van hai lá cấp, bệnh nhân thường có nhịp xoang hơn là rung nhĩ, nhĩ trái hơi to hoặc không to, không có calci hóa van hai lá, không có hẹp van hai lá phối hợp, và trong nhiều trường hợp thất trái chỉ hơi giãn.

Van hai lá thoái hóa nhầy (van hai lá "lấc lư" hoặc "cuộn sóng" hoặc sa van hai lá) thường không có triệu chứng nhưng có thể kết hợp với đau ngực không đặc hiệu, khó thở, mệt mỏi hoặc hồi hộp đánh trống ngực. Hầu hết các bệnh nhân là nữ giới, gầy và một số có biến dạng lồng ngực nhẹ. Có tiếng clắc giữa tâm thu đặc trưng, nó có thể là tiếng thổi phức tạp nhưng đôi khi đi liền sau là tiếng thổi tâm thu muộn. Dấu hiệu này tăng lên trong tư thế đứng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng là chủ yếu nhưng có thể được xác định bằng siêu âm. Ý nghĩa của nó còn đang bàn cãi vì tỷ lệ cao (trên 10%) được chẩn đoán ở những người nữ và nam trẻ khoẻ mạnh, nhưng ở một số bệnh nhân tổn thương này không phải là bệnh lành tính. Những bệnh nhân chỉ có tiếng clắc giữa tâm trương thường không có hậu quả gì, nhưng những bệnh nhân có tiếng thổi tâm thu muộn hoặc tiếng thổi toàn tâm thu có thể phát triển hở van hai lá nặng, thường do đứt dây chằng cột cơ. Nhu cầu thay van thường thấy nhất ở nam giới và tăng lên theo tuổi; đến mức 2% bệnh nhân có hở van hai lá đáng kể về lâm sàng dù trên 60 tuổi vẫn cần phẫu thuật. Viêm nội tâm mạc có thể xảy ra, chủ yếu ở những bệnh nhân có tiếng thổi; những bệnh nhân này nên được dự phòng kháng sinh trước khi nhổ răng và các can thiệp ngoại khoa khác. Chết đột ngột ít gặp và có thể liên quan tới tim nhanh thất; các thuốc chẹn bêta giao cảm thường có tác dụng với rối loạn nhịp trên thất. Nếu như tim nhanh thất có triệu chứng rung thất xuất hiện thì dùng các thuốc chống loạn nhịp và trong nhiều trường hợp thăm dò điện sinh lý học sẽ được chỉ định. Sự kết hợp giữa sa van hai lá và tắc mạch não cũng đã được báo cáo.

Rối loạn chức năng cơ nhú hoặc nhồi máu cơ nhú sau nhồi máu cơ tim cấp tính thường ít gặp. Khi hở van hai lá do rối loạn chức năng cơ nhú, nó có thể giảm đi khi nhồi máu liền sẹo hoặc giãn thất trái thuyên giảm. Nếu hở van hai lá nặng vẫn tồn tại những bệnh nhân này có tiên lượng xấu khi có hoặc không có phẫu thuật và sai lệch tiến triển tự nhiên sẽ phản ánh bệnh tim cơ sở của nó. Hở van hai lá tạm thời - nhưng đôi khi nặng - có thể xảy ra trong đợt thiếu máu cơ tim. Nhưng bệnh nhân bị bệnh cơ tim giãn có thể có hở van hai lá thứ phát do rối loạn chức năng cơ nhú hoặc giãn vòng van hai lá. Trong trường hợp này phẫu thuật van hai lá là hữu ích.

Các thăm dò chẩn đoán

Siêu âm rất hữu ích trong việc phát hiện các quá trình bệnh lý cơ sở (bệnh thấp tim, sa van, bong van) và siêu âm Doppler cho biết một cách định tính nhưng không phải định lượng, xác định mức độ nặng hở van hai lá. Cần phải biết rằng siêu âm Doppler cũng phát hiện hở van hai lá đáng kể về mặt lâm sàng ở nhiều người bình thường và dấu hiệu này được làm sáng tỏ trong các bối cảnh của biểu hiện lâm sàng. Những dữ liệu kèm theo về chức năng và kích thưốc thất trái, nhĩ trái, áp lực động mạch phổi và chức năng thất phải có thể ít giá trị trong việc lập kế hoạch điều trị cũng như trong phát hiện các tổn thương phối hợp. Các kỹ thuật y học hạt nhân cũng như cộng hưởng từ hạt nhân cho phép xác định chức năng thất trái và đánh giá mức nặng của hở van. Thông tim đánh giá tốt nhất mức độ hở van và chức năng thất trái cũng như áp lực động mạch phổi. Chụp động mạch vành thường được chỉ định để xác định nguyên nhân của tổn thương và đánh giá trước khi phẫu thuật.

Điều trị và tiên lượng

Hở van hai lá cấp do viêm nội tâm mạc, nhồi máu cơ tim, đứt dây chăng cột cơ thường phải phẫu thuật cấp. Một số bệnh nhân có thể ổn định bằng các thuốc giãn mạch hoặc bóng đối pha trong động mạch chủ làm giảm số lượng dòng máu phụt ngược lại thất trái do làm giảm sức cản mạch máu đại tuần hoàn. Các bệnh nhân có tổn thương mạn tính có thể vẫn không có triệu chứng trong nhiều năm. Cần phải phẫu thuật khi có hạn chế hoạt động thể lực hoặc nếu như chức năng thất trái xấu dần. Khi chức năng thất trái kém (phân số tống máu < 40%), hoặc do tăng gánh thể tích mạn tính hoặc do quá trình khác, mối nguy cơ của phẫu thuật cao và tiên lượng tiếp theo sẽ kém. Đã có những thành công đáng kể trong việc sửa van bị tổn thương không do thấp, nó sẽ tránh được những biến chứng của van giả đã mô tả ở trên. Thêm vào đó, chức năng thất trái được bảo tồn tốt hơn khi các cấu trúc dưới van vẫn còn nguyên vẹn khi sửa van.

Bài viết cùng chuyên mục

Ngoại tâm thu nhĩ

Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.

Nhồi máu cơ tim cấp

Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Block nhĩ thất

Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Bệnh tim và phẫu thuật

Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim

Còn ống động mạch

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.

Lipid máu và các bất thường về lipid

Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ

Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.

Nhịp nhanh thất và rung thất

Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Thông liên thất

Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.

Nhịp tự thất gia tốc

Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis

Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch

Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.