Các tổn thương ác tính ở thực quản

2016-11-22 10:48 AM

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Khó nuốt thức ăn đặc tiến triển.

Sụt cân thường xẩy ra.

Nội soi với sinh thiết xác nhận chẩn đoán.

Các nhận định chung

Ung thư thực quản thường phát triển ở những người ở độ tuổi 50 và 70 tuổi. Tỷ suất chung giữa nam và nữ giới là 3:1. Có hai loại mô học: ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tuyến. Ở Hoa Kỳ, ung thư tế bào vẩy thường có nhiều ở người da đen hơn ở người da trắng. Nghiện rượu và thuốc lá liên quan mạnh mẽ với sự tăng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào vẩy. Nguy cơ ung thư cũng tăng ở các bệnh nhân bị chai chân, không giãn cơ thắt thực quản dưới, chẹt thực quản do hóa chất ăn mòn, các ung thư đầu và cổ khác. Ung thư biểu mô tuyến thường thấy hơn ở người da trắng và đang tăng lên đột ngột về tỷ lệ mắc bệnh. Phần lớn các ung thư biểu mô tuyến phát triển như là biến chứng của dị sản Barrett do dòng trào ngược dạ dày - thực quản mạn tính. Như vậy, phần lớn ung thư biểu mô tuyến phát sinh ở phần ba xa của thực quản.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Không may là phần lớn các bệnh nhân ung thư thực quản đến viện khi bệnh đã muộn và không chữa được. Hơn 90% các bệnh nhân bị khó nuốt thức ăn đặc, tiến triển trong nhiều tuần, nhiều tháng. Nuốt đau thường xuất hiện. Thường sụt cân nhiều. Sự mở rộng khối u tại chỗ vào cây khí phế quản có thể đưa đến lỗ rò khí - thực quản, có đặc điểm là ho khi nuốt hoặc viêm phổi. Đau ngực hoặc lưng làm nghĩ đến sự lan rộng ra trung thất. Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.     

Các phát hiện labo

Các phát hiện labô là không đặc trưng. Thiếu máu liên quan với bệnh mạn tính hoặc mất máu kín đáo là thông thường. Các đậm độ bất thường của aminotransferase và phosphatase kiềm gợi ý là có di căn gan hoặc xương. Giảm albumin huyết có thể là hậu quả của thiếu dinh dưỡng.

Ghi hình ảnh

Chụp X quang lồng ngực có thể cho thấy bệnh hạch lympho, trung thất rộng ra, các di căn ở phổi hoặc ở xương, hoặc các dấu hiệu của rò khí - thực quản như là viêm phổi. Soi thực quản với barit thường do các thầy thuốc lâm sàng làm, xem như nghiên cứu đầu tiên để đánh giá khó nuốt. Sự xuất hiện tổn thương dạng polip, thâm nhiễm, hoặc loét gợi ý ung thư biểu mô và đòi hỏi đánh giá bằng nội soi. Tuy nhiên, kể cả các tổn thương mà chụp X quang cho thấy có vẻ là lành tính cũng chứng tỏ sự cần thiết phải đánh giá nội soi.

Nội soi phần trên

Nội soi với tế bào học và sinh thiết xác nhận chẩn đoán ung thư biểu mô thực quản với độ tin cậy cao. Trong một số trường hợp, sự lan rộng của u dưới niêm mạc quan trọng có thể đưa đến các sinh thiết niêm mạc không có giá trị chẩn đoán. Có thể cần làm sinh thiết lại nhiều lần.

Chẩn đoán phân biệt

Ung thư biểu mô thực quản phải được phân biệt với các nguyên nhân khác gây khó nuốt tiến triển, bao gồm chít hẹp tiêu hóa, không giãn cơ thắt thực quản dưới, ung thư biểu mô tuyến của tâm vị với tổn thương thực quản. Các chỗ chít hẹp tiêu hóa có vẻ lành tính phải được sinh thiết ở nơi xẩy ra để lòại trừ ung thư kín đáo.

Xác định giai đoạn bệnh

Sau khi xác nhận chẩn đoán ung thư biểu mô thực quản, người ta phải xác định giai đoạn của bệnh vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn liệu pháp. Sau khi xác định giai đoạn bệnh trước mổ hoặc trong khi mổ, các bệnh nhân có thể phân vào ba loại: (1) có thể cắt bỏ với mục đích chữa khỏi bệnh, (2) có thể cắt bỏ nhưng không chữa khỏi bệnh và (3) không cắt bỏ được và không chữa khỏi bệnh. Mục tiêu đặt ra là xác định một nhtím nhỏ các bệnh nhân có thể được lợi do cắt bỏ chữa bệnh trong khi loại ra một nhóm lớn hơn sẽ không hưởng lợi - mà thật vậy có thể trở nên tồi tệ hơn do phẫu thuật.

Bệnh nhân phải qua sự xác định giai đoạn bệnh bằng chụp cất lớp vi tính. Chụp siêu âm nội soi, tuy chưa được sử dụng rộng rãi, có ưu điểm hơn chụp cắt lớp vi tính trong việc xác minh độ lan rộng của u tại chỗ và tổn thương hạch lympho tại chỗ. Sự có mặt của các di căn xa, sự thâm nhập vào trung thất hoặc màng phổi hoặc tổn thương hạch sẽ loại trừ việc cát bỏ để chữa bệnh.

Điều trị

Cách tiếp cận và điều trị ung thư thực quản là khác nhau giữa các cơ sở. Rất ít bệnh nhân được chọn để cắt bỏ chữa bệnh. Trong số còn lại, mục tiêu là khống chế u tại chỗ và làm giảm nhẹ. Điều này có thể đặt được bằng nhiều cách thức:

Điều trị ngoại khoa

Một số nhỏ các bệnh nhân có thể cắt bỏ cả khối để chữa bệnh, tỷ lệ sống thêm 3 năm là 25 - 50%. Các bệnh nhân khác với các tổn thương không chữa được vẫn còn có thể được lựa chọn việc cắt bỏ làm giảm nhẹ, có khả năng cải thiện việc ăn và ngăn ngừa biến chứng tại chỗ của u nhưng không cải thiện khả năng sống thêm nói chung. Lợi ích của hóa điều trị trước mổ cùng với chiếu xạ đang được điều tra về mặt lâm sàng.

Liệu pháp chiếu xạ

Các bệnh nhân với bệnh không mổ được hoặc nói cách khác những người có triển vọng xấu về phẫu thuật thường được gửi đi làm liệu pháp chiếu xạ. Liệu pháp này có thể cung cấp sự giảm nhẹ ngắn hạn đáng kể về các triệu chứng tại chỗ nhu khó nuốt và đau.

Chiếu xạ và hóa liệu pháp

Liệu pháp kết hợp chiếu xạ và hóa chất có vẻ có ưu điểm hơn đơn thuần chiếu xạ đối với ung thư biểu mô khu trú (tức là không có di căn) trong việc đạt tới sự khống chế tại chỗ và khả năng sống thêm nói chung. Tác nhân có hiệu quả nhất hiện nay là cisplatin và fluorouracil. Vì độc tính của chế độ điều trị này lớn hơn nhiều so với liệu pháp chiếu xạ đơn thuần, việc lựa chọn bệnh nhân thích đáng là cực kỳ quan trọng.

Điều trị khối u tại chỗ

Việc làm đỡ khó nuốt có thể đạt được bằng nong thực quản dưới hướng dẫn nội soi hoặc điều trị laser. Ở một số bệnh nhân, việc đặt qua miệng các đường mở cố định bằng chất dẻo là hữu ích.

Tiên lượng

Tiên lượng chung của ung thư biểu mô thực quản vẫn còn là xấu với dưới 5% tỷ lệ sống thêm 5 năm.

Bài viết cùng chuyên mục

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.