Bệnh trĩ
Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
Xuất huyết trực tràng, thò ra ngoài hậu môn và khó chịu mơ hồ.
Tiết ra chất nhầy từ trực tràng
Các phát hiện đặc biệt khi xem xét hậu môn ngoài hoặc thăm khám soi hậu môn.
Các nhận định chung
Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa. Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này, nhưng ở vị trí dưới da, trực tiếp ở phía xa bờ răng cưa. Có ba khối trĩ nội chủ yếu: phải trước, phải sau và trái bên. Ba đến năm trĩ phụ có thể có mặt giữa ba khối trĩ chủ yếu. Căng rặn khi đại tiện táo bón, ngồi lâu và nhiễm khuẩn là những nhân tố góp phần và có thể thúc đẩy các biến chứng. Chẩn đoán được nghi ngờ khi có tiền sử bị một búi trĩ thò ra ngoài hậu môn, đau hậu môn, hoặc xuất huyết và được xác nhận bằng khám trực tràng.
Ung thư biểu mô ruột kết và trực tràng thường làm cho trĩ nặng thêm và gây ra những điều than phiền tương tự. Các polip có thể xuất hiện như là nguyên nhân của xuất huyết và được quy sai cho bệnh trĩ. Vì các lý do này, nội soi đại tràng sigma và thụt barit luôn luôn đi trước việc điều trị bệnh trĩ. Khi có nghi ngờ tăng áp lực tĩnh mạch cửa là nhân tố nguyên nhân, các điều tra về bệnh gan phải được thực hiện. Trĩ phát triển trong khi có thai hoặc thời kỳ sinh đẻ có khuynh hướng rút đi sau đó và phải được điều trị bảo tồn trừ phi tiếp tục dai dẳng.
Phát hiện lâm sàng
Các triệu chứng của trĩ thường nhẹ và từng đợt nhưng một số biến chứng gây phiền phức có thể phát triển và buộc tìm đến điều trị tích cực nội khoa hoặc ngoại khoa, Các biến chứng bao gồm ngứa, không nín được đại tiện, thò búi trĩ ra tái phát bệnh nhân cần phải lấy tay đẩy vào; nứt, nhiễm khuẩn hoặc loét hậu môn, sa và thắt nghẹt trực tràng và thiếu máu do mất máu mạn tính. Ung thư biểu mô đã được báo cáo là rất hiếm xẩy ra trong bệnh trĩ.
Điều trị
Điều trị bảo tồn là đủ trong phần lớn các trường hợp trĩ nhẹ, trĩ này có thể tự nhiên đỡ đi hoặc đáp ứng với chế độ ăn có nhiều xơ, viên trĩ Trixbye, chất pha chế hạt mã đề bọ chét hoặc các thuốc nhuận tràng không kích thích để làm cho phân mềm. Đau và nhiễm khuẩn tại chỗ được xử lý bằng ngâm ngồi trong nước ấm và đặt thuốc đạn hậu môn làm giảm đau hai hoặc ba lần mỗi ngày. Trĩ sa hoặc thắt nghẹt có thể được điều trị bảo tồn bằng cách đẩy nhẹ lên bằng ngón tay đeo găng có bôi dầu trơn; bằng thắt dải cao su, kỹ thuật xử lý nhiệt (tia hồng ngoại) hoặc phẫu thuật lạnh hoặc phẫu thuật cắt bỏ.
Đối với các triệu chứng nặng và biến chứng việc cắt bỏ hoàn toàn trĩ nội hoặc ngoại là nên làm và là thủ tục đem lại kết quả lớn nhất khi được thực hiện thích đáng. Cắt bỏ một trĩ ngoại đơn độc, làm thông một dom trĩ tắc mạch và điều trị bằng thuốc tiêm vào trĩ nội nằm trong phạm vi thực hành ở phòng khám của bác sĩ. Liệu pháp tiêm thuốc có hiệu quả nhưng tỷ lệ tái phát là trên 50%.
Giải quyết tắc do huyết khối trĩ ngoại
Bệnh trạng này gây ra do vỡ một tĩnh mạch vào bờ hậu môn tạo nên cục đông máu trong mô dưới da. Bệnh nhân phàn nàn về một chỗ sưng to đau và thăm khám thấy một khối xanh nhạt, nắn đau, căng, có da bao phủ. Nếu gặp bệnh nhân này sau 24 - 48 giờ khi đau đã giảm - hoặc nếu các triệu chứng là tối thiểu - phải chỉ định cho ngâm ngồi vào chậu tắm nóng. Nếu khó chịu là rõ rệt, có chỉ định lấy cục máu đông. Để bệnh nhân nằm nghiêng, vùng mổ được sát khuẩn, và tiêm lidocain 1% vào trong da xung quanh và phía trên chỗ sưng. Cắt rạch da hình elip và lấy cục máu đông ra. Băng khô bằng gạc để tại chỗ trong 12 - 24 giờ bằng cách dán nối hai mông lại với nhau, sau đó bắt đầu hàng ngày ngồi ngâm.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh loét tiêu hóa:
Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.
Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục
Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.
Viêm túi thừa Meckel
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.
Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập
Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng
Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.
Bệnh Crohn
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Đánh giá các rối loạn thực quản
Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.
Chứng khó tiêu
Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Túi thừa và các khối u lành tính thực quản
Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Viêm ruột kết loét
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình
Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.
Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng
Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ
Hội chứng ruột kích ứng
Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.
