Bệnh trĩ

2016-12-02 10:50 AM

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Xuất huyết trực tràng, thò ra ngoài hậu môn và khó chịu mơ hồ.

Tiết ra chất nhầy từ trực tràng

Các phát hiện đặc biệt khi xem xét hậu môn ngoài hoặc thăm khám soi hậu môn.

Các nhận định chung

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa. Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này, nhưng ở vị trí dưới da, trực tiếp ở phía xa bờ răng cưa. Có ba khối trĩ nội chủ yếu: phải trước, phải sau và trái bên. Ba đến năm trĩ phụ có thể có mặt giữa ba khối trĩ chủ yếu. Căng rặn khi đại tiện táo bón, ngồi lâu và nhiễm khuẩn là những nhân tố góp phần và có thể thúc đẩy các biến chứng. Chẩn đoán được nghi ngờ khi có tiền sử bị một búi trĩ thò ra ngoài hậu môn, đau hậu môn, hoặc xuất huyết và được xác nhận bằng khám trực tràng.

Ung thư biểu mô ruột kết và trực tràng thường làm cho trĩ nặng thêm và gây ra những điều than phiền tương tự. Các polip có thể xuất hiện như là nguyên nhân của xuất huyết và được quy sai cho bệnh trĩ. Vì các lý do này, nội soi đại tràng sigma và thụt barit luôn luôn đi trước việc điều trị bệnh trĩ. Khi có nghi ngờ tăng áp lực tĩnh mạch cửa là nhân tố nguyên nhân, các điều tra về bệnh gan phải được thực hiện. Trĩ phát triển trong khi có thai hoặc thời kỳ sinh đẻ có khuynh hướng rút đi sau đó và phải được điều trị bảo tồn trừ phi tiếp tục dai dẳng.

Phát hiện lâm sàng

Các triệu chứng của trĩ thường nhẹ và từng đợt nhưng một số biến chứng gây phiền phức có thể phát triển và buộc tìm đến điều trị tích cực nội khoa hoặc ngoại khoa, Các biến chứng bao gồm ngứa, không nín được đại tiện, thò búi trĩ ra tái phát bệnh nhân cần phải lấy tay đẩy vào; nứt, nhiễm khuẩn hoặc loét hậu môn, sa và thắt nghẹt trực tràng và thiếu máu do mất máu mạn tính. Ung thư biểu mô đã được báo cáo là rất hiếm xẩy ra trong bệnh trĩ.

Điều trị

Điều trị bảo tồn là đủ trong phần lớn các trường hợp trĩ nhẹ, trĩ này có thể tự nhiên đỡ đi hoặc đáp ứng với chế độ ăn có nhiều xơ, viên trĩ Trixbye, chất pha chế hạt mã đề bọ chét hoặc các thuốc nhuận tràng không kích thích để làm cho phân mềm. Đau và nhiễm khuẩn tại chỗ được xử lý bằng ngâm ngồi trong nước ấm và đặt thuốc đạn hậu môn làm giảm đau hai hoặc ba lần mỗi ngày. Trĩ sa hoặc thắt nghẹt có thể được điều trị bảo tồn bằng cách đẩy nhẹ lên bằng ngón tay đeo găng có bôi dầu trơn; bằng thắt dải cao su, kỹ thuật xử lý nhiệt (tia hồng ngoại) hoặc phẫu thuật lạnh hoặc phẫu thuật cắt bỏ.

Đối với các triệu chứng nặng và biến chứng việc cắt bỏ hoàn toàn trĩ nội hoặc ngoại là nên làm và là thủ tục đem lại kết quả lớn nhất khi được thực hiện thích đáng. Cắt bỏ một trĩ ngoại đơn độc, làm thông một dom trĩ tắc mạch và điều trị bằng thuốc tiêm vào trĩ nội nằm trong phạm vi thực hành ở phòng khám của bác sĩ. Liệu pháp tiêm thuốc có hiệu quả nhưng tỷ lệ tái phát là trên 50%.

Giải quyết tắc do huyết khối trĩ ngoại

Bệnh trạng này gây ra do vỡ một tĩnh mạch vào bờ hậu môn tạo nên cục đông máu trong mô dưới da. Bệnh nhân phàn nàn về một chỗ sưng to đau và thăm khám thấy một khối xanh nhạt, nắn đau, căng, có da bao phủ. Nếu gặp bệnh nhân này sau 24 - 48 giờ khi đau đã giảm - hoặc nếu các triệu chứng là tối thiểu - phải chỉ định cho ngâm ngồi vào chậu tắm nóng. Nếu khó chịu là rõ rệt, có chỉ định lấy cục máu đông. Để bệnh nhân nằm nghiêng, vùng mổ được sát khuẩn, và tiêm lidocain 1% vào trong da xung quanh và phía trên chỗ sưng. Cắt rạch da hình elip và lấy cục máu đông ra. Băng khô bằng gạc để tại chỗ trong 12 - 24 giờ bằng cách dán nối hai mông lại với nhau, sau đó bắt đầu hàng ngày ngồi ngâm.

Bài viết cùng chuyên mục

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.