- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Rụng tóc do sẹo
Rụng tóc do sẹo có thể xảy ra sau chấn thương hóa học hay lý học, liken phẳng lông nhiễm khuẩn hay nhiễm nấm nặng, herpes zoster, luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính, xơ cứng bì và sau chiếu xạ ion hóa. Những yếu tố trong tiền sử, hình thái rụng, và sự xuất hiện của các thương tổn ở da sẽ cho chúng ta biết được nguyên nhân đặc biệt gây rụng tóc, như trong luput ban đỏ và những nhiễm khuẩn khác. Sinh thiết da có thể cần thiết để chấn đoán phân biệt luput với bệnh khác.
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc. Điều quan trọng là phải chữa bệnh mà nó sẽ gây sẹo càng sớm càng tốt.
Rụng tóc không do sẹo
Rụng tóc không do sẹo có thể liên quan tới nhiều bệnh, hệ thống như luput ban đỏ hệ thống, giang mai giai đoạn hai, cường hay thiểu năng tuyến giáp, suy tuyến thượng thận. Điều trị cần thiết duy nhất là kiểm soát các bệnh hệ thống một cách đúng đắn và mau lẹ, có như vậy rụng tóc mới có thể mọc lại được.
Rụng tóc da đầu (hói) ở nam giới, một bệnh hay hặp nhất trong các bệnh rụng tóc, là bệnh được thúc đẩy bởi gen. Thay đổi sớm nhất là rụng tóc ở phía trước của vòm sọ, hoặc ở bên chỏm đỉnh. Bệnh có liên quan với chất bã, bằng chứng là da đầu đỏ, có quá nhiều dầu và vảy da ở trên đầu. Tiến triển của rụng tóc rất khác nhau và không thể dự đoán trước được, Các nghiên cứu về thuốc bôi minoxidil mở rộng cho thấy kết quả rất tốt đối với thể rụng ở đỉnh. Sản phẩm thương mại, Rogaine, là loại dung dịch có chứa 20mg/ml minoxidil. Kết quả thu được tốt nhất đối với bệnh nhân < 50 tuổi, thời gian rụng < 5 năm và kích thước vùng tóc rụng nhỏ. Nếu bôi 2 lần/ngày và bôi hàng năm thì ở 40% bệnh nhân tóc sẽ mọc lại trung bình hay mọc rậm ở vùng đỉnh. Da dầu có thể được điều trị như đã nói ở chương viêm da tiệt bã, nhưng nó không có tác dụng đối với rụng tóc.
Tóc rụng hay mỏng đi ở phụ nữ có cùng một nguyên nhân như rụng tóc da đầu ở nam giới (rụng tóc nội tiết). Tuy vậy, ở nữ thường rụng sau thời kỳ mãn kinh. Minpxidil (Rogaine) là thuốc được chọn để điều trị rụng tóc do nội tiết ở nữ sau khi có rối loạn nội tiết, rối loạn này xảy ra trước thời kỳ mãn kinh, và được quyết định bởi testosteron, DHEAS, androstenedion, T3 và T4, và TSH. Spironolacton là một steroid aldosteron tổng hợp đối kháng, nó đã được sử dụng và có hiệu quả để điều trị rụng tóc lan toả ở phụ nữ với liều 25mg/ngày theo đường uống. Đây không phải là danh mục chỉ định của thuốc, nhưng trong những nghiên cứu về độc tính lậu dài ở chuột thấy có thể gây u. Corticosteroid uống đựợc khuyên dùng để ức chế sản xuất androgen thượng thận, nhưng những loại thuốc này có thể gây loãng xương và độc. Estrogen bôi đôi khi có giá trị.
Những phụ nữ phàn nàn về tóc mỏng mà không có dấu hiệu của rụng tóc cần phải theo dõi tiếp, vì 20% tóc ở có thể bị rụng trước khi các nhà lâm sàng nhận thấy.
Rụng tóc giai đoạn tóc ngừng phát triển là hiện tượng rụng tóc tạm thời ở một vài bệnh nhân, do tăng một cách tạm thời tóc ở giai đoạn ngừng phát triển trong chu kỳ phát triển của tóc. Điều này xảy ra một cách tự động, có thể xảy ra trong giai đoạn phụ nữ sau đẻ, do suy sụp cơ thể, do sốt cao, stress, phẫu thuật hay sốc hoặc suy dinh dưỡng, và cũng có thể do thuốc tránh thai hormon. Bất kể do nguyên nhân nào, rụng tóc giai đoạn nghỉ thường kéo dài 2 - 4 tháng. Tiên lượng nói chung tốt. Chẩn đoán rụng tóc giai đoạn nghỉ dựa vào số lượng tóc rụng lớn và dưới chân tóc có một màu trắng khi kéo tóc nhẹ nhàng hoặc có hơn 6 tóc như vậy nếu bệnh nhân gội đầu vào buổi sáng hôm đó. Đếm số tóc rụng ở lược hoặc sau khi gội đầu nếu rụng trên 150 cái, so sánh với số trung bình là 70 - 100. Trong một nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân chính của rụng tóc loại này là do thiếu sắt, và số tóc rụng có liên quan rõ rệt với nồng độ sắt trong huyết thanh.
Rụng tóc thành mảng là bệnh không rõ nguyên nhân nhưng người ta cho rằng đó là bệnh do miễn dịch. Điển hình, mảng da ở vùng rụng tóc hoàn toàn mịn, có màu hồng và không có sẹo. Có thể thấy những sợi tóc nhỏ, dài độ 2 - 3mm và được gọi là tóc hình chấm than. Các sợi tóc ở giai đoạn nghỉ ở xung quanh mảng tóc rụng dễ bị rụng hơn. Lông mày, râu, và lông mi cũng có thể bị rụng, tóc cũng có thể rụng toàn bộ đầu (alopecia totalis) hoặc tất cả các loại lông, có thể cả lông ở trong lỗ mũi (Alopecia universalis). Giải phẫu bệnh, thấy có nhiều tóc ở giai đoạn đầu của chu kỳ phát triển có kích thước nhỏ và có sự xâm nhập của các lympho bào. Thể nặng có thể điều trị bằng corticoid toàn thân, mặc dù corticoid hiếm khi có tác dụng trừ khi rụng tóc do tinh thần và kinh tế. Bệnh rụng tóc thành mảng có thể kết hợp với bệnh viêm tuyến giáp của Hashimoto, thiếu máu ác tính, bệnh Addison và bạch biến.
Điều trị bằng anthralin 0,5% dạng mỡ bôi hàng ngày có thể kích thích tóc mọc. Tiêm tại chỗ corticosteroid thường có kết quả. Triamcinolon acetonic vối nồng độ 10mg/ml tiêm theo 1 - 2cm khoảng cách mỗi mũi 0,1 ml, tổng liều không tiêm quá 50mg mỗi tháng đối với người lớn. Rụng tóc thành mảng có thể tự khỏi, ở 80% bệnh nhân tóc mọc lại hoàn toàn, nhưng có một vài trường hợp nhẹ lại kháng thuốc và tiến triển tối rụng toàn bộ đầu hay rụng toàn thân. Minoxidil bôi có hiệu quả ở một số bệnh nhân. Cả thuốc bôi dinitrochlobenzen (DNCB) và bôi thực nghiệm đều gây dị ứng, acid dibutyl ester được dùng để điều trị rụng tóc mảng mạn tính. Yếu tố cơ bản là gây nhạy cảm da, rồi bôi ngắt quãng thuốc có nồng độ yếu để tạo ra và duy trì viêm da nhẹ. Đã có thông báo một số trường hợp tóc mọc lại sau 3 - 6 tháng, nhưng không nói đến hiệu quả và an toàn lâu dài của DNCB. Những nhóm hỗ trợ những bệnh nhân rụng tóc thành mảng lan rộng đã có hiệu quả đối với một số bệnh nhân.
Trong chứng tự nhổ tóc, mảng tóc rụng thường không đều, và trên mảng rụng tóc vẫn có những sợi tóc đang mọc vì bệnh nhân không thể nhổ những tóc quá ngắn. Mảng rụng tóc thường chỉ ở một bên, hình tròn và cùng bên với bên tay thuận của bệnh nhân. Bệnh nhân có khi không biết được thói quen của mình.
Rụng tóc do thuốc là một loại rụng tóc ngày càng quan trọng. Các thuốc sau đây có thể gây rụng tóc: thallium, dùng kéo dài và quá liều vitamin A, retinoid, thuốc chống phân bào, chống đông, Cloflbrat (hiếm), thuốc chống cường giáp, thuốc tránh thai, trimethadion, allopurinol, propranolol, indomethacin, camphetamin, salicylat, gentamycin và levodopa. Rụng tóc do hóa chất gây rất lo láng, cần phải nhấn mạnh là rụng tóc không thể thay đổi được. Bác sĩ cần nói cho bệnh nhân biết điều đó.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
U mềm lây: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.
Ngứa: chẩn đoán và điều trị
Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục
Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Hồng ban nút
Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
