Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

2016-07-05 08:33 AM

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Các sẩn phẳng, ngứa, màu tím, có các sọc mảnh màu trắng trên thương tổn và phân bố đối xứng.

Thường nhìn thấy dọc theo các đường xước (hiện tượng Koebener) trên phía trước cổ tay, vùng xương cùng, dương vật, chân và niêm mạc.

Xác định chẩn đoán bằng giải phẫu bệnh.

Nhận định chung

Liken phẳng là một bệnh viêm, ngứa của da và niêm mạc, được đặc trưng bởi các sẩn riêng rẽ hay khu trú ở mặt gấp và thân mình. Hầu hết thường tự phát, nó có thể xuất hiện do việc nhuộm và tráng phim màu. Ba phát hiện chính là các tổn thương da điển hình, các đặc tính giải phẫu bệnh có sự xâm nhập viêm thành dải của các tế bào lympho, các tổ chức bào và các melanophage vào da và trong miễn dịch huỳnh quang có sự lắng đọng thành cụm của IgG dưới thượng bì. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp rất hữu ích nhưng ít khi cần cho chẩn đoán. Thường có liên kết với dạng pemphigus bọng nước, rụng tóc thành mảng, bạch biến, viêm loét ruột kết mạn, giảm gammaglobulin trong máu, và các phản ứng cây ghép. Các thuốc gây liken phẳng bao gồm vàng, demeclocyclin, streptomycin, tetracylin, arsen, iod, chloroquin, quinacrin, quinidin, và paraphenyl enediamin. Antimony, phenothiazin, acid aminosalicylic, chlorothiazid, hydrochlorotiazid và amiphenazol cũng gây bệnh.

Lâm sàng

Có thể ngứa từ nhẹ cho đến nghiêm trọng. Các thương tổn là các sẩn phẳng đa diện, có màu tím, đường kính từ 2 - 4mm, rời rạc hoặc tạo nhóm với các sọc mảnh màu trắng trên bề mặt (sọc Wickham) ở phần mặt gấp cổ tay, trên dương vật, môi, lưỡi, niêm mạc miệng và niêm mạc âm đạo. Liken phẳng ở niêm mạc đã được ghi nhận ở vùng sinh dục, vùng hậu môn - trực tràng, đường dạ dày - ruột, bàng quang, thanh quản, và kết mạc. Các sẩn có thể trở thành bọng nước hoặc loét. Bệnh có thể phát toàn thân. Các tổn thương niêm mạc có một mạng giống ren trắng phủ trên có thể lẫn với chứng bạch sản.

Có thể thấy hiện tượng Koebner (xuất hiện các thương tổn trong vùng chấn thương). Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động. Thương tổn trong miệng là rắc rối chính và nó có thể phát triển thành ung thư tế bào gai.

Chẩn đoán phân biệt

Cần phải phân biệt liken phẳng với các tổn thương tương tự do nguyên nhân nhạy cảm với quinacrin hoặc bismuth và các tổn thương sẩn khác như vảy nến, liken thường mạn và giang mai. Liken phẳng ở niêm mạc cần phải được phân biệt với chứng bạch sản. Các xét nghiệm giải phẫu bệnh có thể dùng để phân biệt với phản ứng mảnh ghép chông vật chủ và trong một số trường hợp phân biệt với phản ứng thuốc có biểu hiện giống liken phẳng.

Điều trị

Liệu pháp bôi

Corticosteroid bôi loại siêu mạnh như betamethason dipropionat, diílorason, diacetat, clobetasol propionat, và halobetasol propionat bôi hai lần một ngày, hầu hết đều có tác dụng khu trú bệnh trong vùng không có nếp gấp. Một cách khác thay vào đó là có thể dùng corticosteroid kem hoặc sáp bôi để bôi hàng đêm và băng lại.

Có thể dùng kem tretinoin (acid retinoic; vitamin A acid), 0,05% bôi vào các tổn thương liken phẳng ở niêm mạc rồi bôi mỡ corticosteroid. Đối với liken phẳng quá sản ảnh hưởng vận động ở gan bàn chân có thể bôi kem tretinoin rồi băng bằng màng polyethylen hàng đêm cũng có hiệu quả.

Liệu pháp toàn thân

Trong các trường họp nặng hoặc các trường hợp cần có đáp ứng nhanh chóng đối với điều trị có thể cần phải dùng corticosteroid. Dùng isotretinoin và etretinat đường uống có vẻ có hiệu quả đối với liken phang ở da và ở miệng mặc dù tác dụng này không được ghi trên nhãn của các loại thuốc này. Tuy nhiên một số bác sĩ lâm sàng cho rằng isotretinoin có thể là cách điều trị được lựa chọn đối với các bệnh lan rộng.

Điều trị bằng thuốc chữa vảy nến cộng với tia cực tím bước sóng dài (PUVA) có thể hiệu quả trong điều trị liken phẳng và dường như không cần thiết phải kéo dài điều trị.

Sau khi kiểm tra xem có glucose - 6 phosphate dehydrogenase hay không có thể điều trị liken phẳng trợt bằng dapson, 50mg/ngày; có thể dùng thuốc này trong nhiều tuần nếu cần với các xét nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng thích họp. Một số nghiên cứu cho thấy dùng metronidazol 250 mg x 3 lần/ngày có thể có hiệu quả trong điều trị liken phẳng ở cả niêm mạc và ở da đối với các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn đường ruột hoặc nhiễm khuẩn bàng quang.

Tiên lượng

Liken phẳng là một bệnh lành tính, nhưng nó có thể kéo dài trong nhiều tháng hoặc nhiều năm và có thể tái phát. Liken phẳng quá sản và các tổn thương ở miệng có xu hướng đặc biệt kéo dài, còn sự thoái hóa các khôi u được mô tả ở các tổn thương trọt mạn tính. Dùng retinoid đường uống có vẻ có hiệu quả làm bệnh thuyên giảm và giúp làm lành các tổn thương trợt da ở một số bệnh nhân.

Bài viết cùng chuyên mục

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.