Tổn thương tủy sống (Spinal cord Injury)

2012-11-19 09:34 PM
Giống như não, tủy sống được bao bọc bởi ba màng (màng não): màng mềm, lớp tận trong cùng; màng nhện, lớp giữa mỏng manh; và màng cứng, là lớp ngoài cùng cứng hơn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tổn thương tuỷ sống (Spinal cord injury - SCI) là tổn thương đối với các dây thần kinh trong ống tủy sống; phần lớn các trường hợp SCI có nguyên nhân do chấn thương cột sống, do đó gây ảnh hưởng đến khả năng của tủy sống trong việc gửi và nhận tín hiệu từ não đến các hệ của cơ thể điều khiển cảm giác, vận động và chức năng tự trị của cơ thể dưới mức tổn thương.

Tủy sống cùng với não hình thành nên hệ thần kinh trung ương (central nervous system - CNS). Tủy sống điều phối cử động và cảm giác của cơ thể.

Tủy sống bao gồm các nơron và các sợi thần kinh dài được gọi là các sợi trục (axon). Các sợi trục trong tủy sống có nhiệm vụ truyền những tín hiệu từ bộ não xuống (dọc theo các đường nhỏ đi xuống) và truyền lên trên bộ não (dọc theo các đường nhỏ đi lên). Nhiều sợi trục ở trong những đường nhỏ này được bao bọc bởi các màng bọc của một chất tách ly có tên là myelin, làm cho các sợi trục có bề ngoài màu hơi trắng; do đó, ở vùng mà có những sợi trục tập trung được gọi là "chất trắng."

Bản thân các tế bào thần kinh, có các nhánh giống như cây được gọi là các sợi nhánh có nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các tế bào thần kinh, tạo nên "chất xám." Chất xám này nằm ở vùng có dạng giống con bướm ở giữa tủy sống.

Giống như não, tủy sống được bao bọc bởi ba màng (màng não): màng mềm, lớp tận trong cùng; màng nhện, lớp giữa mỏng manh; và màng cứng, là lớp ngoài cùng cứng hơn.

Tủy sống được hệ thống thành các đoạn dọc theo chiều dài của cột sống. Các dây thần kinh từ mỗi đoạn tủy sống nối tới những vùng cụ thể của cơ thể. Những đoạn trong cổ, hay vùng cổ, được gọi là C1đến C8, điều khiển những tín hiệu đến cổ, các cánh tay và bàn tay.

Những đoạn ở vùng ngực hoặc phần lưng trên (T1 đến T12) truyền tiếp các tín hiệu tới thân trên và một số phần của các cánh tay. Những đoạn ở vùng thắt lưng hay giữa lưng ngay dưới xương sườn (L1 đến L5) điều khiển các tín hiệu được gửi tới hông và chân.

Cuối cùng, các đoạn ở xương cùng (S1 đến S5) nằm ngay dưới thắt lưng ở phần giữa lưng điều khiển các tín hiệu được gửi tới háng, các ngón chân và một số phần của chân. Những ảnh hưởng của tổn thương tủy sống ở những đoạn khác nhau dọc theo cột sống làm hại lây thống này.

Một vài loại tế bào thực hiện các chức năng của tủy sống. Những nơron vận động có những sợi trục dài điều khiển các cơ xương ở phần cổ, thân trên và các chi. Các nơron cảm giác được gọi là các tế bào hạch rễ lưng tủy sống (dorsal root ganglion) nằm ngay ngoài tủy sống có các sợi trục hình thành các dây thần kinh truyền tiếp thông tin từ cơ thể vào tủy sống. Các nơron trung gian của tủy sống nằm hoàn toàn trong tủy sống có nhiệm vụ giúp tích hợp các thông tin cảm giác và phát ra các tín hiệu đã được phối hợp để điều khiển các cơ.

Tế bào thần kinh đệm, hay các tế bào hỗ trợ, đông hơn các nơron trong não rất nhiều và thực hiện nhiều chức năng cần thiết. Một loại tế bào thần kinh đệm là tế bào thần kinh đệm ít gai (oligodendrocyte), tạo ra các màng bọc myelin có nhiệm vụ cách ly các sợi trục và nâng cao tốc độ và độ tin cậy của quá trình truyền tín hiệu thần kinh. Tế bào thần kinh đệm khác bao quanh tủy sống giống như vành xe và các nan hoa của bánh xe có nhiệm vụ tạo ra các ngăn cho các đường sợi thần kinh đi lên và đi xuống.

Các tế bào hình sao là các tế bào thần kinh đệm có hình dạng giống ngôi sao lớn có nhiệm vụ điều tiết thành phần của các chất lỏng xung quanh các tế bào thần kinh. Một số trong những tế bào này cũng hình thành mô sẹo sau chấn thương. Các tế bào nhỏ hơn được gọi là tiểu thần kinh đệm cũng bị kích hoạt để phản ứng lại chấn thương và giúp dọn dẹp sạch các phế phẩm. Tất cả những tế bào thần kinh đệm này sinh ra các chất giúp nơron sống sót và tác động đến quá trình phát triển của trục sợi. Tuy nhiên, những tế bào này cũng có thể gây trở ngại cho quá trình hồi phục sau chấn thương.

Sau chấn thương, các tế bào thần kinh, hoặc các nơron của hệ thần kinh ngoại biên (peripheral nervous system - PNS), có nhiệm vụ truyền tiếp tín hiệu tới các chi, thân trên và những bộ phận khác của cơ thể đều có khả năng tự lành lại. Tuy nhiên các dây thần kinh bị tổn thương trong hệ thần kinh trung ương CNS không có khả năng tái sinh.

Các tế bào thần kinh của bộ não và tủy sống phản ứng lại chấn thương và tổn thương theo cách khác với phần lớn các tế bào khác của cơ thể, kể cả những tế bào trong hệ thần kinh ngoại biên PNS. Bộ não và tủy sống bị giới hạn trong các khoang xương bảo vệ nhưng việc này lại làm cho chúng dễ bị tổn thương sức ép do tình trạng sưng tấy hoặc chấn thương mạnh. Các tế bào của CNS có một tỷ lệ trao đổi chất cao và phụ thuộc vào lượng glucoza trong máu để sinh năng lượng – những tế bào này cần phải có lượng máu đầy đủ để hoạt động bình thường. Các tế bào CNS đặc biệt dễ bị tổn thương khi lượng máu trong luồng máu bị giảm (thiếu máu cục bộ).

Những đặc điểm duy nhất khác chỉ có ở CNS là "hàng rào máu não" (blood-brain-barrier) và "hàng rào máu tủy sống" (blood-spinal-cord barrier). Những hàng rào này do các tế bào trong các mạch máu ở CNS hình thành nên để bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi sự xâm nhập của các chất có khả năng gây hại và các tế bào trong hệ thống miễn dịch. Chấn thương có thể làm hại những rào chắn này đồng thời góp phần làm tổn thương thêm cho bộ não và tủy sống. Hàng rào máu tủy sống cũng ngăn ngừa sự xâm nhập của một số loại thuốc điều trị có khả năng gây hại.

Cuối cùng thì trong bộ não và tủy sống, tế bào thần kinh đệm và ma trận ngoại bào (chất xung quanh tế bào) khác với những tế bào thần kinh đệm và ma trận ngoại bào ở trong cac dây thần kinh ngoại biên. Những sự khác nhau giữa hệ PNS và CNS tạo nên những phản ứng khác nhau đối với tổn thương.

So sánh tổn thương hoàn toàn với tổn thương không hoàn toàn

Sự khác nhau giữa một sự "tổn thương hoàn toàn" và "tổn thương không hoàn toàn" là gì? Những người bị tổn thương không hoàn toàn là những người có một số chức năng cảm giác hoặc vận động không cần đến bị tác động dưới mức tổn thương – tủy sống không bị tổn thương hay phá vỡ hoàn toàn. Ở trường hợp tổn thương hoàn toàn, tổn thương thần kinh làm tắc từng tín hiệu từ não chuyển đến các bộ phận của cơ thể dưới mức tổn thương.

Mặc dù phần lớn mọi người đều hy vọng cơ hội phục hồi chức năng sau tổn thương tủy sống, nhưng thường thì cơ hội phục hồi chức năng cao hơn lại ở những người bị những tổn thương không hoàn toàn.

Trong một cuộc nghiên cứu lớn về tất cả các trường hợp tổn thương tủy sống ở Colorado, theo báo cáo của Bệnh viện Craig thì chỉ một phần bảy người bị liệt hoàn toàn ngay sau tổn thương đã có được một số cử động đáng kể. Nhưng trong số những người vẫn có khả năng cử động ở hai chân ngay sau khi tổn thương thì ba phần tư trong số họ đã có những tiến triển tốt hơn.

Khoảng 2/3 trong tổng số những người bị tổn thương ở cổ mà ngay sau khi tổn thương có thể cảm thấy nhức nơi ghim kẹp ở hai chân thì cuối cũng sẽ phục hồi được cơ đủ khỏe để có thể đi lại được. Trong số những người bị tổn thương ở cổ mà ngay sau khi tổn thương chỉ có thể cảm thấy chạm nhẹ thì có khoảng 1 trong số 8 người có thể đi lại được.

Các cơ bắt đầu khôi phục lại chức năng càng sớm bao nhiêu thì càng nhiều cơ hội bấy nhiêu cho khả năng phục hồi thêm. Nhưng nếu các cơ phục hồi lại muộn hơn - sau khoảng một vài tuần đầu tiên - thì tỷ lệ phục hồi xảy ra ở các cơ cánh tay nhiều hơn các cơ ở chân.

Chỉ cần có một số cải thiện và thêm các cơ phục hồi được chức năng thì cơ hội được phục hồi tốt hơn là có thể xảy ra.

Nếu sự phục hồi không diễn ra càng lâu bao nhiêu thì tỷ lệ phục hồi càng ít hơn bấy nhiêu.

Những con số thống kê

Xấp xỉ 450.000 người ở Hoa Kỳ bị tổn thương tủy sống do chấn thương, với hơn 10.000 trường hợp SCI mới mỗi năm. Trong tổng số những người bị tổn thương tủy sống thì nam giới chiếm khoảng 82 phần trăm và còn lại là nữ giới 18 phần trăm.

Các trường hợp tổn thương tủy sống phần lớn đều có nguyên nhân từ tai nạn phương tiện gắn máy. Những nguyên nhân thường gặp tiếp theo là ngã và hành động bạo lực. Những tổn thương tủy sống liên quan tới thể thao thường gặp ở trẻ em và tuổi vị thành niên, trong khi những tổn thương tủy sống liên quan đến công việc (đặc biệt là từ công trình xây dựng) chủ yếu xảy ra ở người lớn.

Phần lớn những bệnh nhân tổn thương tủy sống là ở độ tuổi vị thành niên hoặc ở lứa tuổi đôi mươi. Trong số đó xấp xỉ có 80% là nam giới. Tỷ lệ tổn thương ở nam giới giảm ở độ tuổi trên 65, lứa tuổi trở thành cơ chế tổn thương tủy sống phổ biến nhất. Hơn một nửa trong tổng số các trường hợp tổn thương tủy sống xảy ra ở vùng cổ, ví dụ như ngay tại cổ. Gần một phần ba trong số các trường hợp xảy ra ở vùng ngực (nơi xương sườn dính vào cột sống). Số còn lại xảy ra ở vùng thắt lưng, ví dụ như ở vùng lưng dưới.

Hiện tại không có phương thức chữa trị nào đối với những tổn thương tủy sống. Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu đang được thực hiện để thử các liệu pháp phẫu thuật và thuốc đang tiến triển nhanh chóng. Các phương pháp điều trị bằng thuốc ngăn ngừa diễn tiến của tình trạng tổn thương, phẫu thuật giảm sức ép, cấy tế bào thần kinh, tái tạo thần kinh, và các liệu pháp điều trị thuốc phức tạp đang được kiểm tra như là những phương pháp điều trị để vượt qua những ảnh hưởng của tình trạng tổn thương tủy sống.

Source: Association of American neurological surgeon (American Association of Neurological Surgeons), Craig Hospital, the morning of the Christopher and Dana Reeve, National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute ofNeurological Disorders and Stroke).

Bài viết cùng chuyên mục

Bộ não và rượu: rượu đã làm teo não

Khi phân tích các bảng câu hỏi, điểm kiểm tra nhận thức và quét MRI, họ nhận thấy số lượng co rút ở vùng đồi thị liên quan đến số lượng uống

Covid 19: ba lý do tại sao gây ra tình trạng thiếu oxy thầm lặng

Mặc dù trải qua mức độ oxy thấp nguy hiểm, nhiều người bị nhiễm COVID-19 thuộc trường hợp nghiêm trọng đôi khi không có triệu chứng thở gấp hoặc khó thở.

Insulin nền-Bolus cho bệnh nhân nhập viện với Covid-19: các nguyên tắc cơ bản

Insulin thường cung cấp sự bao phủ trong giai đoạn sau ăn (ngoài 4 giờ sau bữa ăn chính), một số mức điều hòa glucose cơ bản, thì tác dụng của insulin tác dụng nhanh chủ yếu giới hạn trong giai đoạn sau ăn (lên đến 4 giờ sau một bữa ăn chính).

Đại dịch covid: nghiên cứu về tự chủ của trẻ em

Hành vi ủng hộ quyền tự chủ có thể có những tác động tích cực không chỉ đối với trẻ được tiếp nhận, mà còn đối với hệ thống xã hội (gia đình) và người cung cấp dịch vụ hỗ trợ - cũng trong những thời điểm khó khăn như trong dịch bệnh do vi-rút corana gây ra.

Ngáp: tại sao nó rất dễ lây lan và tại sao nó lại quan trọng

Ngáp lây nhiễm, được kích hoạt một cách không tự nguyện, khi chúng ta quan sát người khác ngáp, đó là một hình thức phổ biến của ngáp

Kích thích điện chức năng (Functional electrical stimulation)

Parastep là một hệ thống “thần kinh giả” được lập trình điện toán. Người bệnh dựa người vào khung tập đi có bánh phía trước với một bàn phím được nối vào bộ vi xử lý đeo ở thắt lưng.

Statins: thuốc hạ cholesterol có phù hợp không?

Statin có thể có lợi ích khác ngoài việc giảm cholesterol, một lợi ích hứa hẹn có vẻ là đặc tính kháng viêm của chúng, giúp ổn định lớp niêm mạc mạch máu

Covid-19: liệu pháp chống đông máu vào phác đồ điều trị

Cần đánh giá nguy cơ huyết khối tắc mạch của bệnh nhân và mức độ nghiêm trọng của COVID-19, theo đó liều LMWH trung gian / kéo dài hoặc điều trị sẽ được chỉ định.

Mang thai và hội chứng tiền kinh nguyệt: những điều cần biết

Làm xét nghiệm thử thai là cách tốt nhất và dễ nhất để xác định xem đó là PMS hay mang thai sớm, có thể làm xét nghiệm tại nhà hoặc đến nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe

Giữ xương chắc khỏe: phòng ngừa loãng xương

Mất xương thường bắt đầu muộn hơn đối với nam giới, thường là vào cuối những năm 50, và tiến triển chậm hơn so với phụ nữ

Thuốc đông y bổ xung: FDA đưa ra tuyên bố mới về rủi ro

Trong tuyên bố của mình, FDA giải thích sự cần thiết phải bảo vệ công chúng, khỏi những rủi ro tiềm ẩn, của các thuốc đông y bổ xung

Bệnh tiểu đường: có thực sự có 5 loại?

Sự phân tầng phụ mới này, cuối cùng có thể giúp điều chỉnh, và nhắm mục tiêu điều trị sớm, cho những bệnh nhân có lợi nhất

Trứng ảnh hưởng đến cholesterol: tài trợ nghiên cứu liệu có sai lệch kết quả?

Trứng có hàm lượng cholesterol cao, các nhà khoa học đã quan ngại rằng, chúng có thể dẫn đến mức cholesterol máu cao, nếu ăn quá nhiều

Insulin hàng tuần: điều trị tiểu đường loại 2 kiểm soát lượng đường trong máu

Giảm số lần tiêm insulin hàng tuần có thể cải thiện sự tuân thủ điều trị, có thể mang lại kết quả tốt hơn với tiêm insulin nền hàng ngày, dùng liều một lần mỗi tuần cũng có thể làm tăng mức độ sẵn sàng bắt đầu điều trị bằng insulin của bệnh nhân tiểu đường loại 2.

Vi rút Corona 2019: xét nghiệm đối với các trường hợp nghi ngờ

Xét nghiệm phát hiện 2019 nCoV đã và đang được phát triển, một số chỉ có thể phát hiện ra virus mới, và một số cũng có thể phát hiện các chủng khác

Ngứa do bệnh gan: cơ chế đáng ngạc nhiên

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng trong một bệnh gan được gọi là viêm đường mật nguyên phát (PBC), bệnh nhân bị dư thừa lysophosphatidylcholine (LPC), một loại lipid được phosphoryl hóa, hoặc chất béo, lưu thông trong máu.

Nhân cách quái dị: ảo tưởng về sự vĩ đại?

Các yếu tố văn hóa có thể ảnh hưởng đến nội dung của ảo tưởng của một người, điều này là do văn hóa ảnh hưởng đến kiến thức và những gì họ tin về thế giới

Lạm dụng tình cảm: những ảnh hưởng là gì?

Lạm dụng tình cảm, không bao giờ là lỗi của người trải qua nó, có thể gây ra cả hậu quả dài hạn, và ngắn hạn

Vắc xin Covid-19: lụa chọn ở Hoa Kỳ và liều lượng tiêm chủng

Sự lựa chọn giữa các loại vắc xin COVID-19 này dựa trên tình trạng sẵn có. Chúng chưa được so sánh trực tiếp, vì vậy hiệu quả so sánh vẫn chưa được biết.

Coronavirus (2019 nCoV): hướng dẫn tạm thời cho các bác sỹ Hoa kỳ

Vào ngày 31 tháng 12 năm 2019, WHO đã được cảnh báo về một số trường hợp viêm phổi ở thành phố Vũ Hán, virus này không phù hợp với bất kỳ loại virus nào được biết đến

Thời tiết có ảnh hưởng đến đau khớp không?

Một nghiên cứu gần đây cho thấy không có mối liên hệ nào giữa thời tiết và các triệu chứng đau lưng hoặc khớp

Chế độ ăn uống chống viêm và bệnh lý

Chế độ ăn uống chống viêm cũng chứa một lượng gia tăng chất chống oxy hóa, đó là các phân tử phản ứng trong thực phẩm, giảm số lượng các gốc tự do

Chế độ ăn ít carbohydrate có thể giúp giảm cân?

Nhìn chung, nghiên cứu chứng minh rằng, trong thời gian ngắn, chế độ ăn ít carbohydrate có thể giúp những người giảm cân dễ dàng giảm cân hơn so với chế độ ăn kiêng

Vắc xin Covid-19 AstraZeneca: tại sao các nước trên thế giới đang tạm ngừng sử dụng

Bất chấp những cam đoan đó, các quốc gia châu Âu bao gồm Pháp, Đức, Ý và nhiều quốc gia khác đã đình chỉ việc tiêm chủng bằng vắc xin AstraZeneca.

Bệnh thận mãn sử dụng thuốc đông y: tác dụng độc hại nguy hiểm

Một trong những mối nguy hiểm, với bất kỳ sự kết hợp của các dược chất, là sự tương tác tiềm năng, phản ứng thuốc đông y có khả năng tồi tệ nhất