Bệnh tim bẩm sinh: thông tim chẩn đoán

2020-02-15 03:04 PM
Thông tim rất quan trọng, đối với các phép đo chính xác, và thiết lập các chẩn đoán, sự hiện diện của các bất thường huyết động cùng tồn tại, ở bệnh nhân mắc bệnh

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Dữ liệu huyết động luôn luôn và là một phần không thể thiếu của tất cả các quan sát tim mạch. Những tiến bộ đáng kể trong cả kỹ thuật phẫu thuật và không phẫu thuật cho bệnh tim đã được thiết lập trong thập kỷ qua, phần lớn là do những đổi mới cả trong và ngoài phòng thông tim. Nhiều dạng bệnh tim khó có thể dễ dàng được xác nhận với sự cải thiện về kỹ thuật siêu âm tim hai chiều và Doppler. Tuy nhiên, do bản chất của xét nghiệm, sẽ luôn luôn có các xét nghiệm không xâm lấn dưới mức tối ưu hoặc bệnh nhân trong đó xét nghiệm như vậy không thể được thực hiện. Do đó, thông tim vẫn rất quan trọng đối với các phép đo chính xác và thiết lập các chẩn đoán. Sự hiện diện của các bất thường huyết động cùng tồn tại ở bệnh nhân mắc bệnh.

Các bệnh lý tim bẩm sinh có luồng thông trái phải như: thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch gây tăng áp động mạch phổi nặng, nguy cơ tăng áp động mạch phổi nặng sau mổ có thể gây tử vong hoặc áp lực động mạch phổi vẫn còn tăng cao không giảm sau khi đóng các luồng thông -> phẫu thuật tốn kém nhưng không hiệu quả.

Do đó cần thiết phải thông tim, đó kháng lực mạch máu phổi để tránh mổ các trường hợp đã có chống chỉ định, hoặc từ chối mổ các trường hợp còn chỉ định mổ.

Chỉ định

Bệnh nhân bị bệnh tim bẩm sinh có shunt trái -> phải yếu kèm tăng áp động mạch phổi nặng (áp lực phổi ≥ 2/3 áp lực hệ thống)

Chống chỉ định

Bệnh nhân có bệnh tim bẩm sinh tím, đảo shunt phải -> trái, hội chứng Eisenmenger.

Bệnh nhân trong tình trạng nhiễm trùng.

Tình trạng huyết động không ổn định.

Nguyên lý Fick và công thức tính cung lượng tim, kháng lực mạch phổi

Nguyên lý Fick được trình bày lần đầu tiên vào năm 1870 dự trên nguyên lý

Sự hấp thu và giải phóng một chất bởi một cơ quan được đặc trưng bởi sự chênh lệch về nồng độ của chất đó giữa máu động mạch và tỉnh mạch và liên quan đến lượng máu qua cơ quan đó.

Lưu lượng máu phổi được xác định một cách lý tưởng bằng việc đo lường sự khác biệt nồng độ oxy trong máu đến phổi ( động mạch phổi) và máu ra khỏi phổi (tĩnh mạch phổi) và tỷ lệ hấp thu oxy của máu từ phổi. Nếu không có luồng thông tim và lưu lượng máu phổi bằng với lưu lượng máu hệ thống thì phương pháp oxy Fick cũng đo lưu lượng máu hệ thống. Do đó: cung lượng tim = tiêu thụ oxy/ sự chênh lệch nồng độ oxy trong máu động mạch và tĩnh mạch.

Trong thực tế tỷ lệ hấp thu oxy từ phổi của máu không đo được, mà chỉ đo được tỷ lệ hấp thu oxy từ không khí phòng của phổi. Nếu trong trạng thái ổn định thì hai trị số này bằng nhau. Ngoài ra sự khác biệt giũa oxy động tĩnh mạch qua phổi cũng không được đo một cách trực tiếp. Thông thường, máu động mạch phổi (máu tĩnh mạch pha trộn thật sự được lấy mẫu, còn máu tĩnh mạch phổi không lấy mẫu được. Thay vào đó, máu của động mạch chủ hay máu của thất trái được lấy và được xem là có chứa oxy bằng với oxy trong máu tĩnh mạch phổi trộn. Thực tế, bởi vì có hệ thống mạng lưới giường tĩnh mạch và tĩnh mạch phế quản, nên oxy trong máu động mạch chủ thấp hơn oxy trong máu tĩnh mạch phổi từ 2-5 ml/l.

Khái niệm bước nhảy oxy: khi có luồng thông từ trái sang phải qua lỗ thông, ở vị trí sau chỗ thông bên tim phải có sự tăng lên về độ bão hòa oxy so với vị trí trước. Ngược lại nếu có luồng thông từ phải sang trái thì sẽ có sự giảm độ bão hòa oxy từ buồng tim trái đến động mạch chủ.

Các công thức

Thể tích tiêu thụ oxy:

Hiện nay có hai phương pháp đo sự tiêu thụ oxy được sử dụng rộng rãi là phương pháp polarographic và paramagnetic. Oxy tiêu thụ có thể đo bằng dụng cụ đo tỉ lệ chuyển hóa, dụng cụ này khá phức tạp, gồm có tế bào cảm thụ oxy, một mặt nạ hoặc nắp đậy, máy có cảm biến oxy. Trong thực tế vì cách đo mức tiêu thụ oxy đòi hỏi nhiều kỹ thuật khó khăn, máy móc phức tạp và tốn kém nên nhiều nơi chấp nhận ước đoán mức tiêu thụ oxy theo diện tích bề mặt cơ thể. Tiêu thụ oxy lúc nghỉ là 125ml/m2 hoặc 110ml/m2 cho người cao tuổi, công thức này đã được chấp nhận từ nghiên cứu ở đại học Taxus ở Dallas.

Cách tính lưu lượng máu:

Lưu lượng máu phồi (Qp):

Qp = Tiêu thụ ô xy / (hàm lượng ô xy TMP – hàm lượng ô xy ĐMP)

Hàm lượng oxy trong máu tĩnh mạch phổi (ml/l).

Hàm lượng oxy trong máu động mạch phổi (ml/l).

Người ta tính được: 1g Hb mang được 1,36 ml Oxy.

Do đó hàm lượng Oxy trong máu (ml/l) theo lý thuyết = nồng độ Hb (g/dl) x 10 x 1,36 => Hàm lượng Oxy trong máu (ml/l) = 10 x 1,36 x nồng độ Hb (g/dl) x độ bão hòa oxy (SaO2).

Qp = Tiêu thụ ô xy / (SaO2 TMP – SaO2 ĐMP) x 10 x 1,36 x Hb

Trường hợp không lấy được máu của TMP thì lấy SaO2 của ĐMC (nếu SaO2 ĐMC ≥ 95%).

Nếu SaO2 ĐMC nhỏ hơn 95% + có luồng thông từ phải sang trái trong tim thì SaO2 TMP được ước lượng = 98%.

Nếu SaO2 ĐMC nhỏ hơn 95% + không có luồng thông từ phải sang trái trong tim thì vẫn tính theo SaO2 ĐMC.

Tương tự cho lưu lượng hệ thống:

Qs = Tiêu thụ ô xy / (SaO2 ĐMC - SaO2 TM trộn) x 10 x 1,36 x Hb

SaO2 TM trộn: Độ bão hòa oxy của máu tĩnh mạch trộn

Người ta qui ước: SaO2 TM trộn = (SaO2 TM chủ trên x 3 + SaO2 TMC dưới)/4.

Trường hợp bệnh nhân còn ống động mạch SaO2 TM trộn được thay = SaO2 thất phải.

Trường hợp bệnh nhân chỉ có thông liên thất SaO2 TM trộn được thay = SaO2 nhĩ phải.

Cách tính kháng lực tuần hoàn:

Kháng lực tuần hoàn được biểu thị là tỉ số giảm áp lực giữa hai điểm của hệ tuần hoàn khi dòng máu đi qua.

Kháng lực tuần hoàn được tính bằng đơn vị Wood hay đơn vị dyne.sec.cm-5.

1dyne.sec.cm-5 = 80 Wood

Kháng lực đại tuần hoàn RVS = (áp lực TB ĐMC – áp lực TB NP)/Qs.

Kháng lực ngoại biên Rs = (áp lực TB ĐMC)/Qs.

Kháng lực tiểu tuần hoàn: RVP = (áp lực TB ĐMP – áp lực TB NT)/Qp.

Kháng lực tổng mạch phổi: RP = (áp lực TB ĐMP – áp lực TB NT)/Qp.

TMP: tĩnh mạch phổi.

ĐMP: Động mạch phổi. SaO2 ĐMP được = trung bỉnh cộng của ĐMP trái, ĐMP phải và thân ĐMP

TBĐMP: Động mạch phổi trung bình

TBĐMC: Động mạch chủ trung bình

TBNP: Nhĩ phải trung bình

TBNT: Nhĩ trái trung bình, nếu bệnh nhân không có thông liên nhĩ thì thay bằng áp lực trung bình động mạch phổi bít.

Trị số bình thường:

Kháng lực hệ thống: 1170 ± 270 dynes-sec-cm-5

Kháng lực tiểu tuần hoàn: 67 ± 30 dynes-sec-cm-5

Ý nghĩa các thông số

Tỉ số Qp/Qs phản ánh mức độ của luồng thông, tỷ số này không phụ thuộc vào các biến số khác ( thể tích tiêu thụ oxy, Hb, áp lực) nó có thể được tính chỉ thông qua trị số SaO2.

Qp/Qs < 1,5: luồng thông nhỏ không cần phẫu thuật nếu bệnh nhân có thông liên nhĩ hoặc thông liên thất không kèm biến chứng.

Qp/Qs ≥ 2: luồng thông trái phải lớn thường có chỉ định phẫu thuật để ngừa bệnh mạch máu phổi về sau.

Qp/Qs = 1->2: luồng thông trung bình, có chỉ định phẫu thuật nếu nguy cơ phẫu thuật ít nguy hiểm

Qp/Qs < 1: cho thấy luồng shunt phải sang trái nó cũng là dấu hiệu của bệnh mạch máu phổi không hồi phục.

Ngoài ra có rất nhiều tiêu chuẩn được đưa ra để quyết định phẫu thuật tim bẩm sinh có tăng áp ĐMP. Dưới đây là các chỉ số trích trừ quyển Grossman’s Cardiac Catheterization.

Tỉ số RVP/RVS là một trong những tiêu chuẩn để quyết định phẫu thuật cho các bệnh tim bẩm sinh tăng áp động mạch phổi.

Bình thường RVP/RVS ≤ 0,25.

0,25-0,5: bệnh mạch máu phổi trung bình.

0,75: bệnh mạch máu phổi nghiêm trọng.

≥ 1 chống chỉ định phẫu thuật.

Lưu ý: Tỉ lệ kháng lực này chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau: hormone, tốc độ lắng máu ảnh hưởng trực tiếp lên giường mao mạch phổi và mao mạch hệ thống liên quan đến tình trạng lâm sàng tức thời của bệnh nhân hơn là sự thay đổi bên trong mạch máu phổi. Một số trường hợp suy tim trái sẽ có kháng lực mao mạch phổi và hệ thống tăng cao nhưng tỷ số lại bình thường cho thấy chưa có bệnh lý trong nội mạch.

Kháng lực mao mạch phổi là một hệ thống động học chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: cơ học, thần kinh, sinh hóa.

Kháng lực mao mạch phổi có thể tăng lên khi được đo trong tình trạng thiếu oxy, thừa CO2, tăng trương lực giao cảm, tăng hồng cầu, giải phóng seroronin tại chỗ, tắc nghẽn cơ học bởi đa nguyên tắc, phù phổi trước mao mạch hay chèn ép phổi ( tràn dịch màng phổi, tăng áp lực trong thành ngực). Kháng lực mao mạch phổi có thể giảm bởi oxy, adenosine, isoproterenol, alpha antagonists như phentolamine, tolazoline, hít NO, truyền prostacycline, ức chế calci liều cao. Các thuốc giãn mạch có thể được sử dụng để làm test xác định trường hợp tăng áp động mạch phổi cố định, không hồi phục. Hít oxy được dùng để đánh giá phản ứng mạch máu phổi. Các bệnh nhân bị tim bẩm sinh với luồng thông trong tim có kháng lực mạch máu phổi tăng cao (≥ 600 dynes-sec-cm-5) cần được cho thở oxy 100% qua mask trước khi kết luận tăng áp phổi cố định.

Cách thực hiện thông tim đo kháng lực

Thiết lập đường vào từ động tĩnh mạch đùi, dùng sheat 4-5F.

Đưa catheter (pigtail) vào động mạch chủ, catheter (multipurpose) vào ĐMC, ghi lại áp lực trong ĐMC và ĐMP, đưa một catheter khác (MP) để đo áp lực nhĩ phải, nhĩ trái, trường hợp không có thông liên nhĩ không đo được áp lực nhĩ trái thì dùng sonde SwanGanz để đo áp lực ĐMC bít thay cho áp lực nhĩ trái.

Các vị trí lấy máu để đo bão hòa oxy:

Thân động mạch phổi.

Động mạch phổi trái.

Động mạch phổi phải.

Ngay trên van ĐMP.

Đường ra thất phải.

Giữa thất phải.

Mỏm thất phải.

Tại van 3 lá.

Nhĩ phải thấp, ngay trên van 3 lá.

Giữa nhĩ phải.

Phần cao nhĩ phải.

Phần thấp nhĩ phải.

Phần cao tĩnh mạch chủ dưới.

Phần thấp tĩnh mạch chủ dưới (L4-5).

Phần cao tĩnh mạch chủ trên (gần tĩnh mạch vô danh).

Phần thấp tĩnh mạch chủ trên (gần nhĩ phải).

Động mạch chủ.

Nhĩ trái, tĩnh mạch phổi (nếu có thông liên nhĩ hoặc lỗ bầu dục).

Các mẫu máu theo nguyên tắc phải được lấy trong cùng thời điểm, do đó cần có ít nhất 3 đường vào (2 tĩnh mạch đùi, 1 động mạch đùi) để đưa catheter vào lấy máu, thao tác lấy máu cần phải nhanh và chính xác, thời gian tối đa cho phép để lấy các mẫu máu ≤ 7 phút, nếu vị trí nào đó không thể lấy được (do xuất hiện ngoại tâm thu) thì chuyển sang lấy máu ở các vị trí khác sau đó quay trở lại. Khi lấy máu ở vị trí khác nhau cần chú ý rút bỏ máu có trong catheter khoảng 2ml, sau đó bơm trả lại, đồng thời điểm kiểm tra áp lực tại chỗ lấy máu, máu được lấy vào xylanh 1ml có tráng bằng heparine ( không tráng quá nhiều heparine sẽ làm sai kết quả, nếu bệnh nhân đã được cho Heparine rồi, thì xylanh không cần phải tráng Heparine) và ghi rõ vị trí lấy trên xylanh. Lấy máu xong cần đem xét nghiệm ngay để tránh sai số.

Các mẫu máu được lấy hai lần khác nhau, mỗi lần đều ghi lại áp lực các vị trí đã nói:

Lần 1: Bệnh nhân thở khí trời (oxy 21%).

Lần 2: Bệnh nhân thở oxy 100%.

Sau khi lấy máu xong tiến hành chụp buồng tim, đại động mạch xác định vị trí, kích thước các luồng thông và tổn thương phối hợp.

Các thông số sẽ được tính theo công thức đã nêu trên qua phần mềm Excel hoặc Ascess.

Các kết quả thông tim kết hợp lâm sàng, siêu âm, Xquang… sẽ được hội chẩn nội, ngoại khoa để quyết định phẫu thuật.

Theo dõi bệnh nhân sau thủ thuật

Sau thủ thuật bệnh nhân được rút sheath và băng ép vùng bẹn trong 24 giờ.

Bệnh nhân nằm nghỉ tại giường sau 24 giờ thì tháo băng ép.

Đối với bệnh nhi cần gây mê toàn thân thì được theo dõi tại phòng hồi sức cho đến khi rút ống nội khí quản, bệnh nhân tỉnh hoàn toàn, các dấu hiệu sinh tồn ổn định sẽ được chuyển sang trại tim mạch theo dõi tiếp.

Xét nghiệm creatinine, Na, K ngày hôm sau thủ thuật.

Bài viết cùng chuyên mục

Khi mang thai và cho con bú: các thực phẩm cần tránh

Danh sách các loại thực phẩm mà một người nên tránh trong khi mang thai là dài, đây có thể là lý do tại sao một số người tin rằng họ cũng phải ăn một chế độ ăn hạn chế

Uống rượu có an toàn khi cho con bú không?

Mặc dù uống trong chừng mực là an toàn, điều quan trọng là phải hiểu cồn trong sữa mẹ bao lâu sau khi uống và có thể làm gì nếu muốn tránh trẻ sơ sinh dùng chung rượu

Mẹo để có giấc ngủ ngon hơn

Những cách khác để tối ưu hóa môi trường xung quanh cho giấc ngủ bao gồm loại bỏ tivi, điện thoại và bất kỳ thiết bị văn phòng nào trong phòng ngủ

Fluoride trong kem đánh răng và nước: tốt hay xấu?

Fluoride là dạng ion hóa của nguyên tố flo, nó được phân phối rộng rãi trong tự nhiên, và hỗ trợ khoáng hóa xương và răng

Tâm lý ích kỷ: điều gì nằm ở giá trị cốt lõi?

Đạo đức giả, lừa dối, đạo đức buông thả, tự ái, tâm lý quyền, tâm thần, tính bạo dâm, tự quan tâm, và bất bình là tất cả các tính cách tiêu cực được công nhận trong tâm lý học

Ngay cả một điếu thuốc mỗi ngày cũng là quá nhiều

Sử dụng dữ liệu từ 141 nghiên cứu khác nhau, liên quan đến hàng triệu người tham gia, các nhà nghiên cứu so sánh những người hút thuốc lá một, năm, hoặc 20 điếu thuốc mỗi ngày

COVID-19: kết quả xét nghiệm âm tính giả có thể dẫn đến mất cảnh giác

Khi xét nghiệm COVID-19 trở nên phổ biến hơn, việc hiểu rõ giới hạn của nó và tác động tiềm ẩn của kết quả sai lệch đối với các nỗ lực y tế cộng đồng là vô cùng quan trọng.

Tại sao cơ thể bị đau nhức?

Trong khi hầu hết các trường hợp đau nhức cơ thể có thể điều trị dễ dàng và tương đối vô hại, có một số tình trạng bệnh lý nghiêm trọng hơn bao gồm đau nhức cơ thể như một triệu chứng

Tại sao nước tiểu sẫm màu: nguyên nhân, chẩn đoán và phòng ngừa

Lý tưởng nhất là nước tiểu sẽ có màu vàng nhạt, điều này sẽ cho thấy đủ nước, nước tiểu tự nhiên có một số sắc tố màu vàng được gọi là urobilin hoặc urochrom

Trầm cảm: cảm thấy như thế nào?

Mặc dù nhiều người bị trầm cảm cảm thấy buồn bã, nhưng nó cảm thấy nghiêm trọng hơn nhiều so với những cảm xúc đến và đi theo những sự kiện trong cuộc sống

Bệnh Herpes: tái phát do virus ngủ đông sống lại

Vấn đề đối với các bác sĩ là, hầu hết thời gian, mụn rộp herpes nằm im lìm trong các tế bào thần kinh, và chỉ có thể điều trị trong thời gian hoạt động

Aspirin cho phòng ngừa bệnh tim mạch?

Trước khi xem xét tác động của aspirin ở những người không mắc bệnh tim mạch, điều quan trọng đầu tiên là phải làm rõ việc sử dụng aspirin không gây tranh cãi

Nguyên nhân gây chảy máu dưới da?

Khi xuất huyết xuất hiện trực tiếp dưới da, máu có thể thoát ra ngoài vùng da xung quanh và làm cho da bị biến màu, sự đổi màu da này là một hỗn hợp màu đỏ, xanh, đen hoặc tím

Cảm giác tội lỗi: nguyên nhân và những điều cần biết

Cảm giác tội lỗi thường trải qua, có thể khiến khó nhận ra thành công, hoặc thuộc tính cá nhân tích cực, điều này có thể có tác động tiêu cực đến lòng tự trọng

Tại sao cánh tay bị tê vào ban đêm?

Trong bài viết này, hãy tìm hiểu những gì có thể gây ra cảm giác cánh tay bị tê vào ban đêm, làm thế nào để ngăn chặn, và những phương pháp điều trị có sẵn

Khi mang thai: cách trị cảm lạnh cảm cúm

Nhiều loại thuốc có thể được sử dụng trong khi mang thai, vì vậy điều trị cảm lạnh hoặc cúm trong khi mang thai không phải là căng thẳng

Massage bà bầu: những điều cần biết

Được sự chấp thuận của bác sĩ trước khi đi massage là một ý tưởng hay, đặc biệt là nếu bị đau ở bắp chân hoặc các bộ phận khác của chân

Sức khỏe sinh dục cho phụ nữ (Sexuality for Women)

Việc bôi trơn âm đạo cũng có vấn đề của nó. Một số phụ nữ SCI cho biết rằng họ bị phản ứng với chất bôi trơn còn những người khác thì lại không.

Đặc điểm lâm sàng Covid 19

Khoảng 20 đến 30 phần trăm bệnh nhân nhập viện, với COVID 19, và viêm phổi, phải được chăm sóc đặc biệt để hỗ trợ hô hấp.

Sars CoV-2: biến đổi khí hậu có thể đã thúc đẩy sự xuất hiện

Lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên toàn cầu trong thế kỷ qua đã khiến miền nam Trung Quốc trở thành điểm nóng cho các loài coronavirus do dơi sinh ra, bằng cách thúc đẩy sự phát triển của môi trường sống trong rừng được loài dơi ưa thích.

Dùng aspirin: người già khỏe mạnh không được hưởng lợi

Đối với người cao tuổi, không có tiền sử bệnh tim mạch trước đó, lợi ích của việc dùng aspirin là rất nhỏ, và không vượt quá rủi ro

Tim đập nhanh khi mang thai: đánh trống ngực

Đánh trống ngực thường vô hại, tuy nhiên, trong một số trường hợp, chúng có thể chỉ ra một vấn đề trong tim hoặc những nơi khác trong cơ thể

Virus corona (2019-nCoV): xác định và đánh giá

Đánh giá và xác định bệnh nhân có thể bị bệnh hoặc những người có thể đã tiếp xúc với 2019 Coronavirus, kịp thời đưa ra biện pháp cách ly và điều trị

Chấn thương thần kinh cánh tay (Brachial plexus Injury)

Phần lớn các bệnh nhân bị chấn thương kiểu thần kinh thất dụng phục hồi được 90 đến 100 phần trăm chức năng theo cách tự nhiên.

Các vitamin và chất bổ sung: hầu hết là sự lãng phí tiền bạc

Tổng quan cho thấy dùng các chất bổ sung được sử dụng rộng rãi nhất, vitamin tổng hợp, vitamin D, vitamin C và canxi không có tác dụng đáng kể