Test quá mẫn và giải mẫn cảm

2016-03-01 12:33 PM

Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nên làm test quá mẫn trước khi tiêm kháng độc tố, các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoặc thuốc (penicillin) cho những bệnh nhân có phản ứng nặng với các chất này trong quá khứ. Nếu như test được mô tả là âm tính thì không cần phải giải mẫn cảm và liều đầy đủ có thể được dùng. Nếu như test dương tính thì cần thay thuốc. Nếu như không thể thay thế được thì cần phải giải mẫn cảm.

Test trong da với trường hợp quá mẫn

Penicillin là một loại thuốc thường dùng như là một chỉ định đối với test mẫn cảm và giải mẫn cảm. Test da đòi hỏi 2 loại chế phẩm: PPL (Penicilloyl - polylysin) và hỗn hợp các thành phần quyết định. Một số điểm cần nhấn mạnh trong việc thực hiện và giải thích các test này. Bất cứ khi nào có thể được, nên sử dụng cả 2 loại PPL và hỗn hợp các thành phần quyết định, vì có 85% phản ứng test da dương tính với PPL nhưng chỉ có 15% phản ứng với hỗn hợp các chất quyết định. Thêm vào đó, nếu penicillin G được sử dụng thay thế hỗn hợp các chất quyết định thì một số bệnh nhân dị ứng sẽ bị bỏ sót. Khoảng 25% số người có phản ứng với hỗn hợp chất quyết định có thể không phản ứng với penicillin G và vì thế bệnh nhân này vẫn có thể dị ứng nặng hoặc phản ứng nhanh hơn với penicillin. Test da được thực hiện với mỗi loại tại các vị trí khác nhau bằng cách nhỏ một giọt nhỏ dịch trên da và dùng đầu kim vạch nhẹ trên da. Nếu như không có phản ứng trong vòng 10 phút thì có thể tiêm 0,01 - 0,02 ml trong da, làm nổi lên một cục nhỏ. Nếu xuất hiện cục có đường kính > 5 mm thì coi là test dương tính và chỉ định giải mẫn cảm. Nếu test âm tính, thuốc có thể dùng được vởi các lưu ý được kể dưới đây. Thậm chí nếu test âm tính, thì khoảng 1% số bệnh nhân sẽ có phân ứng ngay lập tức hoặc phản ứng nhanh hơn. Vì vậy thuốc có thể dùng với độ an toàn tương đối nhưng cần phải theo dõi các lưu ý kể dưới đây.

Giải mẫn cảm

Lưu ý

Quá trình giải mẫn cảm không phải là không có hại, người ta đã thấy có những trường hợp tử vong do phản vệ. Nếu nghi ngờ quá mẫn, có thể khuyên sử dụng một loại thuốc không liên quan về mặt cấu trúc thay thế và giải mẫn cảm cho những trường hợp mà điều trị không thể trì hoãn được và không có thuốc thay thế khác.

Thuốc kháng histamin (25 - 50 mg hydroxyzin hoặc diphenhydramin tiêm bắp hoặc uống) nên dùng trước khi giải mẫn cảm làm giảm nhẹ bất kỳ phản ứng nào xảy ra. Có thể phải chuẩn bị các dụng cụ đường thở.

Xử trí giải mẫn cảm ở đơn vị điều trị tích cực, là nơi có thể thực hiện theo dõi tim và đặt nội khí quản.

Epinephrin: dung dịch 1 ml 0,1%, nên sẵn sàng để có thể dùng ngay lập tức.

Phương pháp giải mẫn cảm

Một số phương pháp giải mẫn cảm đã được mô tả với penicillin, bao gồm sử dụng cả hai chế phẩm đường uống và tiêm tĩnh mạch. Tất cả các phương pháp đều bắt đầu với liều rất nhỏ và tăng liều từ từ cho đến khi đạt được liều điều trị. Đối với penicillin, một đơn vị thuốc được tiêm tĩnh mạch và quan sát bệnh nhân trong 10 - 15 phút. Nếu không có phản ứng, một số lời khuyên là dùng liều gấp đôi, trong khi một số khác lại khuyên tăng liều dùng lên gấp 10 lần cứ sau 10 - 15 phút cho tới 2 triệu đơn vị, khi ấy sẽ dùng nốt phần còn lại của liều mong muốn.

Có những lời khuyên dùng test da và giải mẫn cảm với cả các chế phẩm khác (kháng độc tố botulinum, kháng độc tố bạch hầu ...), có thể tham khảo lời chi dẫn trên bao bì của nhà sản xuất.

Điều trị những trường hợp bị phản ứng

Những phản ứng ở mức độ nhẹ

Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết. Nếu việc giải mẫn là bắt buộc, cần tiến hành chậm và việc tăng liều thuốc cần phải từ từ hơn.

Những phản ứng ở mức độ nặng

Nếu co thắt phế quản xẩy ra thì nên tiêm dưới da 0,3 - 0,5ml epinephrin mỗi 10 - 20 phút. Những can thiệp có thể áp dụng tiếp theo nếu các triệu chứng vẫn còn là: hít metaproterenol (0,3 ml dung dịch 5% trong 2,5 ml dung dịch muối sinh lý), tiêm tĩnh mạch aminophyllin (liều tân công 6mg/kg, sau 30 phút thì duy trì với liều 0,3 - 0,9 ml/kg/giờ) hoặc dùng corticosteroid (250mg hydrocortison hoặc 50mg methylpređnisolon tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ với 2 hoặc 4 liều). Nếu có hạ huyết áp thì cần truyền dịch (dung dịch muối sinh lý hoặc dịch keo), dùng epinephrin (1ml dung dịch pha loãng 0,1% trong 500ml DgW tiêm tĩnh mạch với tốc độ 0,5 - 5µg/phút) vá kháng histamin (25 - 50mg hydroxyzin hoặc diphenhydramin, tiêm bắp hoặc uống sau mỗi 6 - 8 giờ thì cần thiết). Phản ứng bì, biểu hiện như mày đay hoặc phù mạch, đáp ứng với tiêm dưới da epinephrin, và kháng histamin với liều bắt đầu phải gấp 4 lần.

Bài viết cùng chuyên mục

Ỉa chảy ở người du lịch

Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.

Bệnh do rickettsia

Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.

Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt

Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Bệnh do vi khuẩn Listeria

Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.

Thương hàn

Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.

Bệnh mèo cào

Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.

Bệnh dại

Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.

Ho gà

Các triệu chứng bệnh ho gà thường kéo dài 6 tuần và diễn biến theo 3 giai đoạn liên tiếp: giai đoạn viêm long ban đầu, có đặc điểm là khởi phát kín đáo.

Bệnh do virus cự bào

Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.

Sốt vàng

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.

Bệnh phong

Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Sốt do chuột cắn

Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Bệnh do Leptospira

Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Diễn biến tự nhiên và các nguyên tắc chẩn đoán và điều trị Giang mai

Các thông số dịch não tủy trong giang mai thần kinh rất đa dạng, Các ca bệnh cổ điển thường có protein tăng, nhiều bạch cầu lympho và phản ứng VDRL dương tính.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Bệnh Lyme

Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.

Nhiễm khuẩn da do liên cầu

Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.