Cúm
Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhiễm virus đường hô hấp là bệnh hay gặp nhất ở người. Người ta đã xác định được sự liên quan đặc hiệu giữa những nhóm virus với những hội chứng bệnh nhất định, ở trẻ sơ sinh và người già hoặc những người có bệnh lý đường hô hấp trước đó thì bội nhiễm vi khuẩn làm tăng tỷ lệ biến chứng và tử vong.
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Thường gây thành dịch, ít khi tản phát.
Xuất hiện đột ngột với sốt, rét run, mệt mỏi, ho, chảy mũi và đau cơ.
Đau, sốt, mệt lả, không tương xứng với triệu chứng viêm long.
Giảm bạch cầu.
Nhận định chung
Cúm (orthomyxovirus) là một bệnh lây truyền theo đường hô hấp. Ngược với virus hợp bào và rhinovirus, bệnh này lây truyền qua các giọt nước bọt rất nhỏ hơn là các hạt khí dung lớn. Mặc dù có những trường hợp lẻ tẻ nhưng dịch bệnh và đại dịch xảy ra với những khoảng cách khác nhau, thường xuất hiện vào mùa thu hoặc mùa đông. Typ A và B gây ra triệu chứng lâm sàng khác nhau, còn typ C thường gây bệnh nhẹ. Người ta thừa nhận rằng có những chủng mới phát triển trung gian giữa những chủng của người và chim, có vector truyền bệnh là lợn. Thời gian ủ bệnh 1- 4 ngày.
Việc chẩn đoán bệnh cúm sẽ khó khăn nếu không có yếu tố dịch tễ. Bệnh này giống nhiều bệnh có sốt nhẹ khác nhưng hầu như luôn luôn kèm theo ho.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Khởi phát thường đột ngột với sốt, rét run, mệt mỏi, đau cơ, đau sau xương ức, đau đầu, ngạt mũi và đôi khi có nôn. Sốt kéo dài 1- 7 ngày (thường 3 - 5 ngày). Bệnh nhân có sổ mũi, ho không có đờm, đau họng, sung huyết nhẹ ở họng, mặt đỏ, kết mạc đỏ.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Giảm bạch cầu là hay gặp. Bệnh nhân có thể có protein trong nước tiểu. Virus có thể được phân lập từ dịch rửa họng bằng cấy truyền vào phôi gà hoặc vào các tế bào để nuôi cấy. Kháng thể xuất hiện trong tuần thứ 2 dựa vào phản ứng kết hợp bổ thể hoặc phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu.
Các biến chứng
Virus cúm gây hoại tử biểu mô đường hô hấp và dễ dẫn đến nhiễm khuẩn thứ phát. Sự tương tác giữa vi khuẩn và virus là hai chiều, chính các enzym của vi khuẩn (như protease, những hoạt chất giống trypsin, streptokinase, plasminogen) có tác dụng hoạt hóa virus cúm. Những biến chứng hay gặp là viêm xoang cấp, viêm tai giữa, viêm phế quản mủ và viêm phổi; người già và người ốm lâu ngày có nguy cơ biến chứng cao.
Viêm phổi thường do phế cầu hoặc (đặc biệt) tụ cầu và đôi khi chính là do virus cúm. Viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim và viêm tĩnh mạch huyết khối đôi khi cũng xảy ra.
Hội chứng Reye là một biến chứng nặng nhưng hiếm gặp của virus cúm và các virus khác (như thủy đậu). Biến chứng này thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Hội chứng này gồm có suy gan tiến triển nhanh, bệnh não và tỷ lệ tử vong có thể tới 30%. Sinh bệnh học chưa được rõ, nhưng hội chứng này có liên quan tới dùng aspirin. Hạ đường huyết, tăng transaminase huyết thanh, tăng amoniac máu, thời gian prothrombin kéo dài và thay đổi trạng thái tâm thần có thể xảy ra trong vòng 2 - 3 tuần sau khi bệnh khởi phát, về mặt mô học, thấy có hiện tượng nhiễm mỡ rất mạnh và mất glycogen ở ngoại vi tiểu thùy gan. Điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ và chống phủ não.
Phòng bệnh
Vaccin virus tam giá có thể tạo miễn dịch không hoàn toàn (khoảng 85%) trong vòng từ vài tháng đến một năm. Do đặc tính kháng nguyên virus thay đổi hàng năm, vaccin được sản xuất dựa vào những chủng virus phổ biến của năm trước. Vaccin được khuyến cáo dùng từ tháng 10 - 11 hàng năm cho các đối tượng: người trên 65 tuổi, trẻ em, trẻ vị thành niên dùng aspirin điều trị kéo dài, người chăm sóc bệnh nhân, những người bị bệnh phổi hoặc bệnh tim mạn tính hoặc người ốm đau, suy kiệt khác và nhân viên y tế. Chống chỉ định dùng vaccin cho những người mẫn cảm với trứng gà hoặc các thành phần khác của vaccin, người bị sốt hoặc giảm tiểu cầu. Không có chống chỉ định đối với người đang điều trị bằng warfarin hoặc steroid. Tác dụng phụ của vaccin ít gặp, bao gồm: đau, đỏ, cứng vùng tiêm và hiếm khi có đau cơ hoặc sốt. Miễn dịch đầy đủ có được khoảng 2 tuần sau dùng vaccin. Vaccin có tác dụng làm giảm cả biến chứng (phòng được 35 - 60% trường hợp phải vào viện của người già) và tỷ lệ tử vong (phòng được 35 - 80% trường hợp chết tại bệnh viện). Vaccin sống giảm độc lực được dùng rộng rãi ở Nga cho người lớn.
Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết. Dùng vaccin ít có hiệu quả khi số lượng CD4 dưới 100 µl. Có thông báo xét nghiệm dương tính giả với HIV, HTLV- 1 và HCV sau dùng vaccin cúm.
Thuốc để phòng bệnh khi có xác định về dịch tễ học hoặc về virus học là influenzae bằng dùng amantadin hydrochlorid uống 200 mg/ngày chia thành 2 lần (đối với người già dùng 100 mg/ngày vì có thể có tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương) hoặc dùng rimantadin (200 mg/ngày, chia thành 2 lần) sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh ở những người chưa dùng vaccin có tiếp xúc với nguồn bệnh nếu bắt đầu dùng thuốc ngay, kéo dài 10 ngày. Amantadin hoặc rimantadin cũng có thể được dùng trong vụ dịch trong khi chờ tạo được miễn dịch sau dùng vaccin.
Điều trị
Cần nghỉ ngơi tại giường, có thể dùng thuốc giảm đau và giảm ho. Amantadin hoặc rimantadin dùng với liều giống nhau để dự phòng làm giảm đáng kể thời gian của các triệu chứng. Rimantadin hay được dùng hơn cho bệnh nhân suy thận, vấn đề kháng thuốc trên lâm sàng còn đang gây tranh cãi. Ribavirin (1,1 g/ngày, pha loãng tới 20 mg/ml dùng theo đường khí dung cùng với oxy trong vòng 12 - 18 giờ/ngày, trong 3 - 7 ngày để điều trị cúm nặng do typ A hoặc typ B. Những thuốc mới hơn dùng theo đường xịt mũi như zanamivir, một loại kháng neuraminidase đang được sản xuất.
Dùng kháng sinh cho trường hợp có các biến chứng nhiễm khuẩn, hay dùng acetaminophen hơn là aspirin để hạ sốt ở trẻ em.
Tiên lượng
Bệnh kéo dài 1- 7 ngày nếu không có biến chứng và tiên lượng rất tốt.
Viêm phế quản mủ, giãn phế quản gây ra bệnh phổi mạn tính và xơ hóa tồn tại suốt đời. Hầu hết tử vong là do viêm phổi do vi khuẩn. Viêm phổi do virus cúm có tỷ lệ tử vong cao ở những phụ nữ mang thai và những người có tiền sử thấp tim. Trong những vụ dịch gần đây, tỷ lệ tử vong thấp trừ các trường hợp suy kiệt.
Nếu sốt kéo dài trên 4 ngày với ho có đờm và số lượng bạch cầu trên 10.000/µl nên nghi ngờ có nhiễm vi khuẩn thứ phát. Viêm phổi do phế cầu là phổ biến nhất và viêm phổi do tụ cầu là nặng nhất.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh tả
Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.
Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên
V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.
Sốt Q
Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.
Bệnh Lyme
Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.
Nhiễm echovirus
Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.
Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm
Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.
Bệnh sởi
Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.
Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai
Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.
Bệnh lỵ trực trùng
Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện tiêu chảy, đau bụng dưới và đi ngoầi đau quặn, mót rặn. Phân có nước, thường có lẫn máu và nhầy.
Rubeon: bệnh sởi Đức
Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.
Bệnh mèo cào
Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.
Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.
Thủy đậu (varicella) và zona
Sốt và khó chịu thường nhẹ ở trẻ em, và nặng hơn ở người lớn, các tổn thương phỏng nước nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết loét nhỏ.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.
Nhiễm virus coxsackie
Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.
Viêm dạ dày ruột do Salmonella
Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương
Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.
Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR
Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.
Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân
Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.
Nhiễm khuẩn da do liên cầu
Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.
Bệnh Hạ cam
Các biến chứng thường gặp là viêm quy đầu và viêm đầu dương vật. Cần chẩn đoán nốt loét hạ cam với các vết loét bệnh khác, đặc biệt là giang mai.
Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A
Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.
Viêm màng não do lao
Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.
Viêm não do arbovirus
Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.
Sốt do ve
Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.
