Cúm

2016-05-03 07:52 PM

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm virus đường hô hấp là bệnh hay gặp nhất ở người. Người ta đã xác định được sự liên quan đặc hiệu giữa những nhóm virus với những hội chứng bệnh nhất định, ở trẻ sơ sinh và người già hoặc những người có bệnh lý đường hô hấp trước đó thì bội nhiễm vi khuẩn làm tăng tỷ lệ biến chứng và tử vong.

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Thường gây thành dịch, ít khi tản phát.

Xuất hiện đột ngột với sốt, rét run, mệt mỏi, ho, chảy mũi và đau cơ.

Đau, sốt, mệt lả, không tương xứng với triệu chứng viêm long.

Giảm bạch cầu.

Nhận định chung

Cúm (orthomyxovirus) là một bệnh lây truyền theo đường hô hấp. Ngược với virus hợp bào và rhinovirus, bệnh này lây truyền qua các giọt nước bọt rất nhỏ hơn là các hạt khí dung lớn. Mặc dù có những trường hợp lẻ tẻ nhưng dịch bệnh và đại dịch xảy ra với những khoảng cách khác nhau, thường xuất hiện vào mùa thu hoặc mùa đông. Typ A và B gây ra triệu chứng lâm sàng khác nhau, còn typ C thường gây bệnh nhẹ. Người ta thừa nhận rằng có những chủng mới phát triển trung gian giữa những chủng của người và chim, có vector truyền bệnh là lợn. Thời gian ủ bệnh 1- 4 ngày.

Việc chẩn đoán bệnh cúm sẽ khó khăn nếu không có yếu tố dịch tễ. Bệnh này giống nhiều bệnh có sốt nhẹ khác nhưng hầu như luôn luôn kèm theo ho.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Khởi phát thường đột ngột với sốt, rét run, mệt mỏi, đau cơ, đau sau xương ức, đau đầu, ngạt mũi và đôi khi có nôn. Sốt kéo dài 1- 7 ngày (thường 3 - 5 ngày). Bệnh nhân có sổ mũi, ho không có đờm, đau họng, sung huyết nhẹ ở họng, mặt đỏ, kết mạc đỏ.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Giảm bạch cầu là hay gặp. Bệnh nhân có thể có protein trong nước tiểu. Virus có thể được phân lập từ dịch rửa họng bằng cấy truyền vào phôi gà hoặc vào các tế bào để nuôi cấy. Kháng thể xuất hiện trong tuần thứ 2 dựa vào phản ứng kết hợp bổ thể hoặc phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu.

Các biến chứng

Virus cúm gây hoại tử biểu mô đường hô hấp và dễ dẫn đến nhiễm khuẩn thứ phát. Sự tương tác giữa vi khuẩn và virus là hai chiều, chính các enzym của vi khuẩn (như protease, những hoạt chất giống trypsin, streptokinase, plasminogen) có tác dụng hoạt hóa virus cúm. Những biến chứng hay gặp là viêm xoang cấp, viêm tai giữa, viêm phế quản mủ và viêm phổi; người già và người ốm lâu ngày có nguy cơ biến chứng cao.

Viêm phổi thường do phế cầu hoặc (đặc biệt) tụ cầu và đôi khi chính là do virus cúm. Viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim và viêm tĩnh mạch huyết khối đôi khi cũng xảy ra.

Hội chứng Reye là một biến chứng nặng nhưng hiếm gặp của virus cúm và các virus khác (như thủy đậu). Biến chứng này thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Hội chứng này gồm có suy gan tiến triển nhanh, bệnh não và tỷ lệ tử vong có thể tới 30%. Sinh bệnh học chưa được rõ, nhưng hội chứng này có liên quan tới dùng aspirin. Hạ đường huyết, tăng transaminase huyết thanh, tăng amoniac máu, thời gian prothrombin kéo dài và thay đổi trạng thái tâm thần có thể xảy ra trong vòng 2 - 3 tuần sau khi bệnh khởi phát, về mặt mô học, thấy có hiện tượng nhiễm mỡ rất mạnh và mất glycogen ở ngoại vi tiểu thùy gan. Điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ và chống phủ não.

Phòng bệnh

Vaccin virus tam giá có thể tạo miễn dịch không hoàn toàn (khoảng 85%) trong vòng từ vài tháng đến một năm. Do đặc tính kháng nguyên virus thay đổi hàng năm, vaccin được sản xuất dựa vào những chủng virus phổ biến của năm trước. Vaccin được khuyến cáo dùng từ tháng 10 - 11 hàng năm cho các đối tượng: người trên 65 tuổi, trẻ em, trẻ vị thành niên dùng aspirin điều trị kéo dài, người chăm sóc bệnh nhân, những người bị bệnh phổi hoặc bệnh tim mạn tính hoặc người ốm đau, suy kiệt khác và nhân viên y tế. Chống chỉ định dùng vaccin cho những người mẫn cảm với trứng gà hoặc các thành phần khác của vaccin, người bị sốt hoặc giảm tiểu cầu. Không có chống chỉ định đối với người đang điều trị bằng warfarin hoặc steroid. Tác dụng phụ của vaccin ít gặp, bao gồm: đau, đỏ, cứng vùng tiêm và hiếm khi có đau cơ hoặc sốt. Miễn dịch đầy đủ có được khoảng 2 tuần sau dùng vaccin. Vaccin có tác dụng làm giảm cả biến chứng (phòng được 35 - 60% trường hợp phải vào viện của người già) và tỷ lệ tử vong (phòng được 35 - 80% trường hợp chết tại bệnh viện). Vaccin sống giảm độc lực được dùng rộng rãi ở Nga cho người lớn.

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết. Dùng vaccin ít có hiệu quả khi số lượng CD4 dưới 100 µl. Có thông báo xét nghiệm dương tính giả với HIV, HTLV- 1 và HCV sau dùng vaccin cúm.

Thuốc để phòng bệnh khi có xác định về dịch tễ học hoặc về virus học là influenzae bằng dùng amantadin hydrochlorid uống 200 mg/ngày chia thành 2 lần (đối với người già dùng 100 mg/ngày vì có thể có tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương) hoặc dùng rimantadin (200 mg/ngày, chia thành 2 lần) sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh ở những người chưa dùng vaccin có tiếp xúc với nguồn bệnh nếu bắt đầu dùng thuốc ngay, kéo dài 10 ngày. Amantadin hoặc rimantadin cũng có thể được dùng trong vụ dịch trong khi chờ tạo được miễn dịch sau dùng vaccin.

Điều trị

Cần nghỉ ngơi tại giường, có thể dùng thuốc giảm đau và giảm ho. Amantadin hoặc rimantadin dùng với liều giống nhau để dự phòng làm giảm đáng kể thời gian của các triệu chứng. Rimantadin hay được dùng hơn cho bệnh nhân suy thận, vấn đề kháng thuốc trên lâm sàng còn đang gây tranh cãi. Ribavirin (1,1 g/ngày, pha loãng tới 20 mg/ml dùng theo đường khí dung cùng với oxy trong vòng 12 - 18 giờ/ngày, trong 3 - 7 ngày để điều trị cúm nặng do typ A hoặc typ B. Những thuốc mới hơn dùng theo đường xịt mũi như zanamivir, một loại kháng neuraminidase đang được sản xuất.

Dùng kháng sinh cho trường hợp có các biến chứng nhiễm khuẩn, hay dùng acetaminophen hơn là aspirin để hạ sốt ở trẻ em.

Tiên lượng

Bệnh kéo dài 1- 7 ngày nếu không có biến chứng và tiên lượng rất tốt.

Viêm phế quản mủ, giãn phế quản gây ra bệnh phổi mạn tính và xơ hóa tồn tại suốt đời. Hầu hết tử vong là do viêm phổi do vi khuẩn. Viêm phổi do virus cúm có tỷ lệ tử vong cao ở những phụ nữ mang thai và những người có tiền sử thấp tim. Trong những vụ dịch gần đây, tỷ lệ tử vong thấp trừ các trường hợp suy kiệt.

Nếu sốt kéo dài trên 4 ngày với ho có đờm và số lượng bạch cầu trên 10.000/µl nên nghi ngờ có nhiễm vi khuẩn thứ phát. Viêm phổi do phế cầu là phổ biến nhất và viêm phổi do tụ cầu là nặng nhất.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm màng não do não mô cầu

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.

Viêm tủy xương do tụ cầu vàng

Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.

Bệnh do vi rút

Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.

Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai

Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.

Dengue: bệnh virus toàn thân

Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.

Virus và viêm dạ dày ruột

Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Thương hàn

Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.

Bệnh lỵ trực trùng

Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện tiêu chảy, đau bụng dưới và đi ngoầi đau quặn, mót rặn. Phân có nước, thường có lẫn máu và nhầy.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Bệnh sởi

Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.

Rubeon: bệnh sởi Đức

Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.

Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.

Bệnh do Legionella

Thuốc đặc trị bệnh do Legionella gây nên là erythromycin, liều ban đầu là 1g, tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần, sau đó giảm xuống còn 500mg ngày uống 4 lần khi bệnh có dấu hiệu cải thiện; thời gian điều trị là 14 - 21 ngày.

Các bệnh do nấm Actinomyces

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Sốt do ve

Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Bệnh bại liệt

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Sốt phát ban thành dịch do bọ chét

Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.

Viêm họng nhiễm khuẩn do liên cầu

Liên cầu tan huyết bê ta nhóm A là vi khuẩn gây viêm họng xuất tiết phổ biến nhất. Bệnh lây qua các giọt nước bọt có vi khuẩn.