Bệnh do Leptospira

2016-05-20 03:08 PM

Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh do Leptospira là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính và thường nghiêm trọng, hay gây tổn thương gan hoặc các cơ quan khác; xoắn khuẩn gây bệnh là Leptospira interrogans, một loài đa dạng bao gồm 23 nhóm huyết thanh và hơn 200 chủng huyết thanh. Ba chủng huyết thanh thường gặp nhất gây bệnh leptospira là Leptospira icterohaemorrhagiae từ chuột, Leptospora canicola từ chó và Leptospira pomona từ gia súc ăn cỏ và lợn. Một vài chủng khác cũng có khả năng gây bệnh, nhưng L. icterohaemorrhagiae gây bệnh nặng nhất. Bệnh phân bố toàn cầu và tỷ lệ mắc bệnh thường cao hơn con số báo cáo. Xoắn khuẩn leptospira thường lây truyền cho người quan thức ăn và nước uống nhiễm nước tiểu của động vật mang mầm bệnh. Xoắn khuẩn có thể xâm nhập qua các tổn thương rất nhỏ ngoài da và có thể qua kết mạc. Các ca nhiễm trong các kỳ nghỉ thường liên quan đến bơi hoặc lướt ván ở vùng nước nhiễm bẩn và các ca liên quan đến nghề nghiệp gặp ở công nhân thoát nước, nông dân trồng lúa, công nhân lò mổ và nông dân các trang trại. Một số ca lẻ tẻ xuất hiện ở những người vô gia cư tiếp xúc với nước tiểu của chuột. Giai đoạn ủ bệnh kéo dài 2 - 20 ngày.

Triệu chứng và dấu hiệu

Bệnh do leptospira không hoàng đảm là dạng bệnh thường gặp và nhẹ, thường diễn biến qua hai giai đoạn. Giai đoạn ban đầu hoặc giai đoạn “nhiễm khuẩn” khởi đầu bằng sốt đột ngột 39 - 40°c, rét run, đau đầu dữ dội và đau cơ, nhất là các cơ bắp chân. Kết mạc mắt sung huyết mạnh. Leptospira có thể phân lập từ máu, dịch não tủy và các mô. Sau một giai đoạn giảm các triệu, chứng và hết sốt kéo dài 1 - 3 ngày bắt đầu giai đoạn hai hoặc giai đoạn “miễn dịch”. Leptospira không có mặt trong máu và dịch não tủy nhưng còn trong thận và các kháng thể đặc hiệu xuất hiện. Sự tái phát các triệu chứng như trong giai đoạn đầu của bệnh cùng với khởi đầu của viêm màng não. Viêm màng bồ đào (có thể một bên hoặc hai bên và thường gây tổn thương toán bộ màng bố đào), phát ban vá viêm hạch có thế xuất hiện. Bệnh thường tự khỏi sau 4 - 30 ngày và bệnh nhân thường hôi phục hoàn toàn.

Bệnh do leptospira có hoàng đảm (hội chứng Weil, thường do L. icterohaemrrhagiae gây nên) là dạng nặng nhất của bệnh, đặc trưng bằng suy chức năng gan thận, tình trạng rối loạn tâm thần, hạ huyết áp và tỷ lệ tử vong 5 - 10%. Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tiếp diễn liên tục mà không chia làm hai giai đoạn.

Sốt trước cẳng chân, một dạng nhẹ của bệnh do leptospira do Leptospira autumnalis gây ra, xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai ở Fort Bragg, Hoa Kỳ. Trong sốt trước cẳng chân, trên da cẳng chân có những ban dát hồng hoặc ban toàn thân xuất hiện cùng với sốt.

Bệnh do leptospira có hoàng đảm cần phân biệt với viêm gan, sốt vàng và sốt hổi quy.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Số lượng bạch cầu có thể bình thường hoặc tăng tới 50.000/µl với tăng chủ yếu bạch cầu đa nhân. Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện. Trong những trường hợp có tổn thương màng não có thể tìm thấy xoắn khuẩn trong dịch não tủy trong 10 ngày đầu của bệnh. Trong giai đoạn sớm của bệnh có thể soi thấy xoắn khuẩn trong trường tối khi xét nghiệm máu của bệnh nhân hoặc nuôi cấy trên môi trường bán cứng (như môi trường Fletcher EMJH). Xét nghiệm nuôi cấy cần thời gian 1 - 6 tuần để mọc. Xoắn khuẩn cũng có thể phân lập từ nước tiểu từ ngày thứ 10 đến tuần thứ sáu. Chẩn đoán thường dựa trên các xét nghiệm huyết thanh. Các xét nghiệm ngưng kết (vi thể, sử dụng vi khuẩn sống; và ngưng kết thô, sử dụng các kháng nguyên chết) trở nên dương tính sau 7 - 10 ngày bị bệnh, đạt cao nhất ở tuần thứ 3 - 4 và có thể tồn tại kéo dài ử hiệu giá cao trong nhiều năm. Vì vậy, để chẩn đoán cần có một sự tăng hiệu giá gấp bốn lần hoặc hơn. Các xét nghiệm ngưng kết phải tiến hành qua nhiều bước và đòi hỏi người thực hiện phải có kỹ thuật. Ngoài ra còn có các xét nghiệm ngưng kết hồng cầu gián tiếp, kháng thể miễn dịch huỳnh quang và ELlSA. Xét nghiệm ELISA IgM đặc biệt có ích trong chẩn đoán sớm, do phản ứng dương tính sớm, chỉ hai ngày sau khi khởi phảt bệnh, khi mà các triệu chứng lâm sàng còn chưa đặc hiệu và phản ứng có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (95%). Phương pháp PCR (hiện còn đang nghiên cứu) tỏ ra nhạy, đặc hiệu, dương tính sớm trong quá trình bệnh và khả năng phát hiện ADN của leptospira trong máu, nước tiểu, dịch não tuỹ và các dịch thể. Creatinin kinase (CK) huyết thanh thường tăng ở những bệnh nhân bị bệnh leptospira và bình thường ở bệnh nhân viêm gan.

Biến chứng

Viêm cơ tim, viêm màng não nước trong, suy thận và thâm nhiễm phổi kèm xuất huyết không hay gặp nhưng thường là những căn nguyên gây tử vong; viêm mống mắt thể mi có thể xuất hiện.

Điều trị

Một loạt kháng sinh, bao gồm penicillin và tetracyclin có tác dụng với leptospira. Penicillin (ví dụ, 6 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch hàng ngày) được coi là có hiệu quả trong bệnh do leptospira nặng, nhất là khi điều trị được bắt đầu trong vòng 4 ngày đầu của bệnh. Phản ứng Jarisch - Hexheimer có thể xuất hiện. Cần theo dõi tìm bằng chứng suy thận và điều trị khi cần. Bệnh có thể phòng ngừa hiệu quả bằng doxycyclin uống 200 mg một lần một tuần trong thời gian có nguy cơ phơi nhiễm. Doxycyclin 100 mg hai lần một ngày trong 7 ngày cũng có thể làm giảm mức độ nặng vả rút ngắn thời gian có triệu chứng trong vòng 3 ngày sau khỏi bệnh.

Tiên lượng

Không có hoàng đảm, bệnh hầu như không dẫn tới tử vong. Với hoàng đảm, tỷ lệ tử vong vào khoảng 5% đối với bệnh nhân dưới 50 tuổi và 30% với những bệnh nhân trên 60 tuổi.

Bài viết cùng chuyên mục

Sốt xuất huyết

Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.

Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Bệnh mèo cào

Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.

Tạo miễn dịch chủ động chống lại các bệnh nhiễm khuẩn

Nhiều loại vaccin được khuyên dùng cho người lớn tùy thuộc theo tình trạng tiêm phòng trước đó của mỗi người và những nguy cơ phoi nhiễm với một số bệnh.

Viêm màng não do lao

Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Bệnh bại liệt

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Nhiễm Adenovirus

Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.

Sốt hồi quy

Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Viêm dạ dày ruột do Salmonella

Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.

Thương hàn

Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.

Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Bệnh Lyme

Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.

Rubeon: bệnh sởi Đức

Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.

Bệnh phong

Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Nhiễm virus herpes typ 6, 7, 8 (HHV)

Nhóm virus này có liên quan tới thải bỏ mảnh ghép và ức chế tủy xương ở người ghép tổ chức, gây viêm phổi và viêm não ở bệnh nhân AIDS.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.