Hiếp dâm

2016-12-10 10:58 AM

Về phía kẻ cưỡng dâm, cưỡng dâm diễn ra trong tình cảm giận dữ, hung hãn và kích thích tình dục. Kẻ cưỡng hiếp thường là một gã đàn ông dùng giao hợp để khủng bố và hạ nhục người phụ nữ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Hiếp dâm hay còn gọi là cưỡng dâm, về pháp luật định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trong những quyền hạn pháp Luật khác nhau. Những người thầy thuốc và những nhân viên phòng cấp cứu giải quyết những nạn nhân bị cưỡng dâm cần làm quen với những luật lệ thuộc về cưỡng dâm ở nước mình. Từ quan điểm y học và tâm lý học, những người điều trị các nạn nhân bị hiếp dâm nhất thiết phải biết rằng có sự không thuận tình và có sự thô bạo của tội ác. Khoảng 95% những nạn nhân bị cưỡng dâm là phụ nữ. Có thể đưa vào là âm đạo, hậu môn hay miệng. Vật đưa vào có thể là dương vật, bàn tay hay một vật ngoài.

Việc không thấy tổn thương ở dường sinh dục không có nghĩa là nạn nhân đã đòng tình. Kẻ tấn công có thể là một người mà nạn nhân không quen nhưng cũng có thể là người quen biết hay có khi chính là người chồng.

"Giao hợp ngoài pháp luật" hay cưỡng dâm theo luật định là giao hợp với một người nữ trước tuổi thành niên, ngay cả được sự đồng tình của người này.

Về phía kẻ cưỡng dâm, cưỡng dâm diễn ra trong tình cảm giận dữ, hung hãn và kích thích tình dục. Kẻ cưỡng hiếp thường là một gã đàn ông dùng giao hợp để khủng bố và hạ nhục người phụ nữ. Những người phụ nữ trong tâm tư không muốn bị cưỡng dâm hay không ngờ được trước nhưng cũng bị kích thích và tận hưởng.

Cưỡng dâm gây tổn thương nghiêm trọng trong 5 - 10% các trường hợp và bao giờ cũng gây khiếp sợ, trong đó đa số các nạn nhân lo sợ cho mạng sống của mình. Do đó hậu quả tất cả các nạn nhân đều mắc chứng bệnh tâm thần. Hơn nữa, một số mắc bệnh lây truyền theo đường tình dục hay có thai.

Vì cưỡng dâm là một cơn khủng hoảng cá nhân, mỗi bệnh phân cổ một phản ứng riêng. Hội chứng sau sang chấn cưỡng dâm gồm 2 giai đoạn chính:

Tức thời hay cấp tính

Run sợ, thổn thức, bồn chồn kéo dài vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân có thể trải qua cáu gắt, tự coi như phạm tội, xấu hổ và lo sợ báo thù hay kiềm chế những cảm xúc này. Các phản ứng thay đổi tùy thuộc vào cá tính của nạn nhân và các tình huống của vụ tấn công.

Muộn và mạn tính

Những vấn đề liên quan đến tái hoạ có thể phát triển trong nhiều tuần, nhiều tháng sau. Lối sống và các hình vẻ hoạt động của cá nhân có thể thay đổi. Những rối loạn trong giấc ngủ hay những ám ảnh sợ sệt thường phát trển. Mất lòng tự trọng trong một. số trường hợp co thể đẫn đến tự vẫn.

Các thày thuốc và nhân viên phòng cấp cứu giải quyểt các nạn nhân bị cưỡng dâm cần làm việc với những trung tâm cộng đồng giải quyết những nạn hiếp dâm bất cứ lúc nào cũng có thể được để tiếp tục giúp đỡ và tư vấn khéo léo.

Những biện pháp giải quyết chung về hành chính

Người thầy thuốc đầu tiên chăm sóc an ủi nạn nhân bị cưỡng dâm cần phải thấu cảm. Bắt đầu bằng một thái độ như "Đây là một sự việc khủng khiếp xảy ra đối với chị. Tôi muốn giúp chị":

Đề nghị bệnh nhân, người bảo vệ hay người gần gũi với gia đình ghi giấy đồng ý cho khám phụ khoa: chụp ảnh nếu có vẻ có ích một cách đương nhiên thì dùng để khai báo cảnh sát. Nếu cảnh sát cần dành lấy thông báo thì để ghi nhận lấy ý kiến về sự việc chuyển giao các bằng chứng.

Lấy và lập tiền sử do những lời của chính bệnh nhân nói ra. Sự nối tiếp các sự việc như thời gian, địa điểm và hoàn cảnh bao gồm trong đó. Ghi ngày kinh cuối cùng mặc dù người phụ nữ có thai hay không và địa điểm có lần giao hợp gần đây nhất trước khi xảy ra vụ cưỡng dâm. Ghi những chi tiết của vụ cưỡng hiếp như cho vào phần rỗng nào của cơ thể, dùng những vật ngoài nào và số lượng kẻ tấn công.

Xem nạn nhân có bình tĩnh, vật vã hoặc lẫn lộn không (có thể do dược liệu và rượu). Hỏi xem nạn nhân đến thẳng bệnh viện hay đã tắm và thay quần áo rồi. Tập hợp các điều khám phá thấy nhưng đừng kết kuận ngay cả khi có ý định làm chẩn đoán, e rằng sẽ sai lầm hoặc không đầy đủ.

Để người bệnh cởi áo khi đứng trên một tấm vải trắng, lông tóc, bụi bẩn và lá lẩu; quần áo lót, quần áo rách, bẩn đều cần giữ làm tang chứng. Cạo dưới móng tay và chải lông mi để lấy chất liệu. Đặt tất cả những tang chứng vào những túi giấy sạch riêng rẽ hoặc trong phong bì có đánh dấu cẩn thận.

Khám bệnh nhân, ghi lại bất cứ vùng nào có sang chấn, có thể chụp ảnh. Khám cơ thể và bộ phận sinh dục dưới ánh sáng đèn Wood để phát hiện tinh dịch, sẽ phát huỳnh quang. Những vùng dương tính cần được lau lượm bằng bông ấm sau đó làm khô trong không khí để xác định PSA có trong các dịch tiết của tuyến tiền liệt. Có thể dùng kính soi cổ tử cung để xác định những vùng sang chấn nhỏ ở lối vào của âm đạo, đặc biệt ở mép sau âm hộ.

Tiến hành khám tiểu khung, giảng giải mọi phương pháp và cần được sự đồng tình, sự cho phép của người bệnh trước khi khám và khám nhẹ nhàng.

Dùng một mỏ vịt nhỏ đã được làm trơn, bằng nước thôi. Lượm bệnh phẩm ở thành âm đạo và ở cổ tử cung bằng bông vô khuẩn và làm hai phiến đồ trên phiến kính và để khô trong không khí. Quệt bông vào miệng (quanh các răng hàm và mặt trong má) và hậu môn cũng bằng cách như thế nếu có điều kiện. Đánh dấu kỹ các phiến kính. Lượm những chất tiết dịch ở âm đạo, hậu môn hay ở mệng bằng bông ẩm. Đặt lên phiến kính cùng với một giọt nước muối sinh lý và đậy lá kính lên. Xem tinh trùng di động và tinh trùng bất động dưới kính hiển vi với độ phóng đại cao, kính khô và đánh giá tỉ lệ phần trăm tinh trùng di động.

Hoàn thành các test labo thích hợp như sau: cấy bệnh phẩm âm đạo, hâu môn hay miệng (khi có điều kiện) để tìm N. gonorrhoeae và và chlamydia. Làm phiến đồ Papanicolaou ở cổ tử cung. Lấy một lượng khí hư ẩm ở âm đạo để thử Trichomonas vaginalis. Làm test thai nghén, test VDRL. Kin đáo thử test kháng thể HIV nếu người bệnh muốn thử và thử lại 2 - 4 tháng sau nếu test đầu tiên âm tính. Làm lại test thai nghén nếu mất kinh trong những tháng sau, làm lại test VDRL 6 tuần sau. Lấy 10ml máu (không có chống đông) và 100 ml nước tiểu nếu trong tiền sử có bị cưỡng uống hoặc tiêm thuốc, uống rượu.

Chuyển tang vật có ghi dấu rõ ràng, thí dụ các mẫu xét nghiệm labo, trực tiếp đến nhà bệnh học lâm sàng có trách nhiệm hoặc đến kỹ thuật viên labo có trách nhiệm, có mặt người làm chứng (không bao giờ qua người liên lạc đưa tin). Như thế, những luật lệ về tang chứng mới không bị gián đoạn.

Điều trị

Cho thuốc giảm đau hay thuốc trấn an thần kinh khi có chì định.

Cho giảm độc tố uốn ván nếu các vết rách bị sâu và có vấy đất, bụi bẩn.

Cho ceftriaxon 125mg tiêm bắp thịt để đề phòng lậu. Thêm vào đó, cho metronidazol 2 g liều duy nhất và doxycyclin 100 mg x 2 lần mỗi ngày trong 7 ngày liền để điều trị chlamydia. Có thể tránh được ủ bệnh giang mai bằng cách điều trị trên, nhưng test VDRL cần phải làm lại 6 tuần sau khi sự việc cưỡng dâm xảy ra.

Đề phòng có thai bằng cách dùng một trong các cách điều trị đã bàn trong tránh thai sau giao hợp nếu cần thiết.

Tiêm vaccin chống viêm gan B.

Đảm bảo cho người bệnh, gia đình chị ta và các bạn bè có được một sự nâng đỡ tiếp tục về tâm lý.

Bài viết cùng chuyên mục

Nang và áp xe tuyến Bartholin

Mủ hay chất tiết dịch lấy ra từ tuyến cần được nuôi cấy để tìm lậu cầu, chlamydia và các mầm bệnh khác và để điều trị cho phù hợp; thường thì ngâm nước ấm có thể có ích

Chảy máu bất thường tiền mãn kinh

Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.

Thuốc tránh thai tiêm và cấy: các progestin tác dụng kéo dài

Một bộ gồm 6 nang nhỏ bằng silastic cấy vào dưới da ở mặt trong cánh tay, Chúng giải phóng hàng ngày và tác dụng tránh thai trong 5 năm

Lạc nội mạc tử cung

Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, u buồng trứng và u xơ tử cung. Viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt

Hội chứng mãn kinh

Tuổi trung bình của mãn kinh ở các xã hội phương Tây là 51 tuổi. Mãn kinh sớm được định nghĩa là suy buồng trứng và mất kinh trước tuổi 40 thường do di truyền hay tự miễn.

Bệnh viêm tiểu khung

Những phụ nữ có đau bụng dưới, khám thấy nhạy cảm đau ở phần phụ hoặc tử cung khi di động nên được cân nhác là bị PID và nên được điều trị bằng kháng sinh trừ khi có chẩn đoán

Ung thư âm hộ

Cũng như những tổn thương tế bào lát của cổ tử cung, sự loạn sản ở các mức nặng nhẹ khác nhau của âm hộ bây giờ đã được nhận biết, Hệ thống phân độ về sự tạo u

Ung thư trong biểu mô của cổ tử cung

Chẩn đoán phỏng chừng bằng phương pháp tế bào học sàng lọc ở một quần thể không có triệu chứng và không nhìn thấy có thay đổi gì đại thể ở cổ tử cung

Triệt sản: chỉ định và điều trị

Vài nghiên cứu cho thấy có thể liên quan với ung thư tuyến tiền liệt nhưng bằng chứng còn mỏng manh và không chắc chắn

Tránh thai sau giao hợp

Đặt dụng cụ tử cung tránh thai trong vòng 5 ngày sau giao hợp không chuẩn bị vào giữa vòng kinh cũng có thể tránh được thai, các dụng cụ tử cung mang đồng

Hội chứng trước hành kinh

Nhiều loại vitanim và chất khoáng liều tương đối cao được gợi ý dùng trong hội chứng này, nhưng không một loại nào tỏ ra có ích, qua các nghiên cứu mù kép và lại có một số tác dụng phụ không mong muốn.

Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung

Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán.

Tránh thai dựa trên cơ sở biết các thời kỳ dễ có thai

Cơ sở của phương pháp là tự người phụ nữ quan sát thấy chất nhầy cổ tử cung tăng, trong và tăng đàn hồi, đau bụng khó chịu một thời gian ngắn vào giữa vòng kinh

Phá thai: chỉ định và điều trị

Những biến chứng tiếp sau phá thai phạm pháp thường cần được chăm sóc cấp cứu chống ra máu, sốc nhiễm khuẩn hay thủng tử cung

Vô sinh

Những lần khám tư vấn cá nhân được hướng dẫn, đề xuất một xử lý tâm lý tình dục nếu không làm phiền hà hoặc đáng phàn nàn

Hậu quả của tiếp xúc với diethylstilbestron trong tử cung

Hiện nay tất cả các phụ nữ phơi nhiễm đều được khuyên bước đầu soi cổ tử cung kiểm tra, sơ bộ tìm những vùng biểu mô bất thường của âm đạo vậ cổ tử cùng

Ung thư cổ tử cung

Những dấu hiệu hay gặp nhất là rong kinh, ra huyết thấm giọt sau giao hợp và loét cổ tử cung. Có thể có máu hoặc mủ, có mùi, không gây ngứa, có thể xuất hiện sau xâm nhiễm.

Sa tử cung

Đối với những phụ nữ lớn tuổi, không muốn giao hợp, bịt tắc một phần âm đạo là phẫu thuật đơn giản và có hiệu quả, Treo tử cung vào thành bụng

Không phóng noãn liên tục

Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron

Thuốc tránh thai uống

Thuốc tránh thai uống liều thấp không có chống chỉ định dùng kéo dài đối với những phụ nữ 35 - 40 tuổi, không hút thuốc lá và không có chống chỉ định gì

Giao hợp đau

Giao hợp đau có thể do viêm âm hộ, hay âm đạo, gây ra co thít âm đạo, màng trinh không giãn hoàn toàn, âm đạo không được bôi trơn đầy đủ.

Chảy máu âm đạo sau mãn kinh

Âm hộ và âm đạo cần được kiểm ra để tìm ra vùng chảy máu, những vết loét hoặc những khối u. Cần làm phiến đồ tế bào học lấy ở cổ tử cung và túi cùng âm đạo. Có thể thấy được tế bào ung thư bị bong ra.

Sa sinh dục

Sa tiểu tràng cũng có thể kèm theo sa tử cung hoặc có thể tiếp theo cắt tử cung khi mà các phần nâng đỡ vòm ầm đạo bị yếu đi hoặc là túi cùng ở sâu

U xơ tử cung

Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú, đẻ khó.

Viêm cổ tử cung

Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.