- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa
- Hậu quả của tiếp xúc với diethylstilbestron trong tử cung
Hậu quả của tiếp xúc với diethylstilbestron trong tử cung
Hiện nay tất cả các phụ nữ phơi nhiễm đều được khuyên bước đầu soi cổ tử cung kiểm tra, sơ bộ tìm những vùng biểu mô bất thường của âm đạo vậ cổ tử cùng
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971, diethylstilbestron (DES) đã được sử dụng rộng rãi ở Mỹ cho những người phụ nữ bị đái tháo đường đang mang thai để điều trị doạ xẩy thai. Có ước chừng 2 - 3 triệu bào thai đã bị tiếp xúc với chất này. Về sau người ta đã phát hiện thấy có mối liên quan giữa bào thai phơi nhiễm với DES và ung thư tế bào sáng của âm đạo và một số các bất thường khác có liên quan mới được chú ý. Một phần ba trong số tất cả các phụ nữ phơi nhiễm có những thay đổi ở'âm đạo (vách ngăn âm đạo, u tuyến âm đạo), ở cổ tử cung (biến dạng và thiểu sản của cổ tử cung phần nằm trong âm đạo) hoặc ở cổ tử cung (buồng tử cung hình T). Hiện nay tất cả các phụ nữ phơi nhiễm đều được khuyên bước đầu soi cổ tử cung kiểm tra, sơ bộ tìm những vùng biểu mô bất thường của âm đạo vậ cổ tử cùng, tiếp theo là kiểm tra tế bào học của âm đạo (cả 4 góc của nửa trên âm đạo) và cổ tử cung hàng năm. Chất iôt trong thuốc nhuộm Lugol ở âm đạo và cổ tử cung sẽ phát hiện được những vùng dị sản của biểu mô bong.
Nhiều phụ nữ đã không biết có sự tiếp xúc với DES, vì thế trong nhóm tuổi có nguy cơ (25 - 45), các thầy thuốc khám bệnh cần lưu ý đến sự thay đổi cấu trúc của âm đạo và cố tử cung vì đó có thể là dấu hiệu của khả năng bị phơi nhiễm với DES và báo cho biết cần phải theo dõi. Tỉ lệ mắc ung thư tế bào sáng vào khoảng 1 trên 1000 phụ nữ phơi nhiễm và tỷ lệ tổn thương tân sản cổ tử cung và âm đạo (loạn sản và ung thư trong biểu mô) cao gấp hai lần so với những phụ nữ không phơi nhiễm. Những đứa trẻ con của phụ nữ dùng DES có khó khăn nhiều hơn trong thụ thai và có sự tăng về ti lệ xảy thai sớm, chửa ngoài tử cung và đẻ non. Thêm vào đó, những bà mẹ điều trị DES trong thời gian mang thai có tăng chút ít tỉ lệ mắc ung thư vú, bắt đầu 20 năm sau khi phơi nhiễm.