Lạc nội mạc tử cung

2016-12-07 09:08 PM

Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, u buồng trứng và u xơ tử cung. Viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Sự phát triển đi chỗ khác của niêm mạc tử cung ra khỏi tử cung đặc biệt ở phần phụ của tiểu khung và ở buồng trứng là nguyên nhân thường gặp gây chảy máu bất thường và thống kinh thứ phát. Tình trang này được biết là lạc nội mạc tử cung. Nguyên nhân, bệnh sinh và diễn biến tự nhiên của nó còn ít được biết đến. Tỷ lệ mắc bệnh ở Mỹ là 2% trong số những phụ nữ sinh đẻ và gấp 3 đến 4 lần so với những phụ nữ vô sinh. Phụ thuộc vào vị trí và sự lạn rộng của những mảnh ghép niêm mạc tử cung mà hậu quả có thể dẫn tới vô sinh, giao hợp đau, hoặc đau trực tràng và chảy máu. Đau nhức có xu hướng hằng định, bắt đầu 2 - 7 ngày trước khi hành kinh và trở nên nặng hơn cho đến khi máu kinh chảy ra. Thăm khám tiểu khung có thể phát hiên được những khối nhỏ cứng, căng đau ở túi cùng, đặc biệt khi thăm khám lúc hành kinh.

Lạc nội mạc tử cung phải được phân biệt với bệnh viêm tiểu khung, khối u tân tạo buồng trứng và u xơ tử cung. Nhìn chung, chỉ có viêm vòi trứng và lạc nội mạc tử cung là các triệu chứng trầm trọng thêm bởi kinh nguyệt. Tổ chức niêm mạc tử cung xâm lấn vào ruột có thể gây ra những dấu hiệu lâm sàng gồm có máu trong phân, điều đó phải được phân biệt với khối u tân tạo của ruột. Sự phân biệt trong những tình huống này dựa vào soi trực - đại tràng sigma và sinh thiết.

Thăm dò siêu âm thường sẽ phát hện được những khối phức hợp chứa đầy dịch mà không có thể phân biệt được với những khối u tân tạo. Hình ảnh cộng hưởng từ là nhạy cảm và đặc hiệu hơn so với siêu âm, đặc biệt trong chẩn đoán những khối u phần phụ. Thụt barit có thể phát hiện được lạc nội mạc tử cung ở đại tràng. Tuy nhiên, chẩn đoán lâm sàng lạc nội mạc tử cung là phỏng chừng và phải được xác định bằng soi ổ bụng hay mổ bụng.

Điều trị

Điều trị nội khoa

Mục đích điều trị nội khoa là để bảo tồn khả năng sinh sản của những phụ nữ còn mong muốn có thai trong tương lai, cải thiện các triệu chứng và làm đơn giản cho phẫu thuật sau này hoặc làm cho không phải phẫu thuật. Việc sử dụng thuốc là để ức chế sự phóng noãn trên 4 - 9 tháng và làm hạ thấp nồng độ hormon, như thể làm ngăn cản sự kích thích có chu kỳ của những mảnh ghép của niêm mạc tử cung và làm giảm kích thước của chúng. Thời kỳ thích hợp nhất của liệu pháp là không rõ ràng, và những kết quả liên quan với thời hạn thai nghén, tác dụng phụ, những nguy cơ và lợi ích dài hạn tỏ ra khác nhau không đáng kể khi được sự so sánh các liệu pháp với nhau, với phẫu thuật (kể cả phẫu thuật laser) và trong những trường hợp nhẹ với dùng giả dược.

Những chất đòng đẳng GnRH như là nafarelin xịt vào mũi 0,2 - 0,4mg hai lần một ngày, hoặc tiêm leuprolid acetat tác dụng kéo dài, 3,75 tiêm bắp thịt hàng tháng được sử dụng trong 6 tháng, ức chế phóng noãn. Những tác dụng phụ của sự giảm estrrogen huyết có thể xảy ra, bao gồm bốc hoả và khô âm đạo.

Danazol được sử dụng trong 6 - 9 tháng với liều lượng thấp nhất cần thiết để ngăn chặn kinh nguyệt, thường là 200 - 400 mg hai lần một ngày. Các tác dụng phụ gồm nam tính hóa bao gồm vú nhỏ đi, tãng trọng lượng, trứng cả và rậm lông.

Viên thuốc tránh thai kết hợp estrogen - progestin, mỗi viên một ngày liên tục trong 6 - 9 tháng. Chỉ tăng liều khi chảy máu giữa vòng kinh.

Medrroxyprogesteron acetat 100mg tiêm bắp cứ hai tuần một lần dùng 4 liều; sau đấy cứ 4 tuần dùng 100mg; thêm vào estrogen uống hoặc estradiol valerat, 30mg tiêm bắp đối với chảy máu giữa vòng kinh. Dùng trong 6 - 9 tháng.

Viên tránh thai liều thấp có thể được dùng 21 ngày trong mỗi một chu kỳ 28 ngày; sự ngăn chận phóng noãn kéo dài sẽ thường ức chế tiếp những mảnh niêm mạc tử cung lạc chỗ tồn đọng, đặc biệt nếu được uống sau khi đã dùng một trong những liệu pháp đã được đề cập ở trên.

Các thuốc giảm đau, có hoặc không có codein có thể là cần thiết trong khi hành kinh. Các thuốc chống viêm không steroid có thể có ích.

Các biện pháp ngoại khoa

Can thiệp ngoại khoa đối với với lạc nội mạc tử cung lan rộng vừa phải sẽ tùy thuộc vào tuổi bệnh nhân, các triệu chứng và mong muốn của người bệnh bảo tồn chức năng sinh đẻ. Nếu bệnh nhân dưới 35 tuổi, cắt bỏ các thương tổn, gỡ các phần dính và để lại tử cung. Ít nhất 20% bệnh nhân được điều trị như vậy có thể trở nên có thai, mặc dù một số phải chịu đựng mổ lại nếu như bệnh tiến triển. Nếu bệnh nhân trên 35 tuổi, không làm được gì vì đau và có liên quan đển cả hai buồng trứng, cắt bỏ hai phần phụ và cắt tử cung có thể là cần thiết.

Những ổ lạc nội mạc tử cung có thể được điều trị lúc soi ổ bụng bằng cách đốt điện đông hai cực làm bốc hơi bằng laser. Bởi vì lạc nội mạc tử cung tiểu khung có thể tạo nên các hình thái khác dễ nhầm với những nốt bỏng hạt kinh điển và các nang chảy máu, cho nên cần theo dõi thận trọng tỉ mỉ về phúc mạc.

Tiên lượng

Tiên lượng về chức nàng sinh sản trong trường hợp lạc nội mạc tử cung sâm hoặc mức độ trung bình là tốt bằng phương pháp điều trị bảo tồn. Cắt bỏ buồng trứng hai bên là phương pháp điều trị tận gốc cho những bệnh nhân có lạc nội mạc tử cung lan rộng và trầm trọng kèm theo đau. Tiếp theo cắt tử cung và cắt bỏ buồng trứng, liệu pháp thay thế estrogen được chỉ định.

Bài viết cùng chuyên mục

Hội chứng mãn kinh

Tuổi trung bình của mãn kinh ở các xã hội phương Tây là 51 tuổi. Mãn kinh sớm được định nghĩa là suy buồng trứng và mất kinh trước tuổi 40 thường do di truyền hay tự miễn.

Hiếp dâm

Về phía kẻ cưỡng dâm, cưỡng dâm diễn ra trong tình cảm giận dữ, hung hãn và kích thích tình dục. Kẻ cưỡng hiếp thường là một gã đàn ông dùng giao hợp để khủng bố và hạ nhục người phụ nữ.

Triệt sản: chỉ định và điều trị

Vài nghiên cứu cho thấy có thể liên quan với ung thư tuyến tiền liệt nhưng bằng chứng còn mỏng manh và không chắc chắn

Phá thai: chỉ định và điều trị

Những biến chứng tiếp sau phá thai phạm pháp thường cần được chăm sóc cấp cứu chống ra máu, sốc nhiễm khuẩn hay thủng tử cung

Tránh thai sau giao hợp

Đặt dụng cụ tử cung tránh thai trong vòng 5 ngày sau giao hợp không chuẩn bị vào giữa vòng kinh cũng có thể tránh được thai, các dụng cụ tử cung mang đồng

Tránh thai dựa trên cơ sở biết các thời kỳ dễ có thai

Cơ sở của phương pháp là tự người phụ nữ quan sát thấy chất nhầy cổ tử cung tăng, trong và tăng đàn hồi, đau bụng khó chịu một thời gian ngắn vào giữa vòng kinh

Chất xốp, bọt, kem, thạch đông và viên đạn tránh thai

Chất bọt, kem và thạch đông, viên đạn cũng có những lợi ích là sử dụng đơn giản và dễ kiếm, Điều bất lợi của chúng ta là có tỉ lệ thất bại cao hơn so với màng ngăn âm đạo

Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung

Vì có một chút nguy cơ gây hội chứng sốc do nhiễm độc, mũ cổ tử cung hay màng ngăn âm đạo đều không được để lâu quá 12 - 18 giờ ở trong âm đạo và cũng không được dùng khi hành kinh.

Dụng cụ tử cung: tránh thai

Những dụng cụ tử cung toàn bằng chất dẻo không cần phải thay sau một thời điểm đặc trưng cho từng loại và có một số phụ nữ đã dùng trong 10 năm hay hơn

Thuốc tránh thai tiêm và cấy: các progestin tác dụng kéo dài

Một bộ gồm 6 nang nhỏ bằng silastic cấy vào dưới da ở mặt trong cánh tay, Chúng giải phóng hàng ngày và tác dụng tránh thai trong 5 năm

Thuốc tránh thai uống

Thuốc tránh thai uống liều thấp không có chống chỉ định dùng kéo dài đối với những phụ nữ 35 - 40 tuổi, không hút thuốc lá và không có chống chỉ định gì

Vô sinh

Những lần khám tư vấn cá nhân được hướng dẫn, đề xuất một xử lý tâm lý tình dục nếu không làm phiền hà hoặc đáng phàn nàn

Giao hợp đau

Giao hợp đau có thể do viêm âm hộ, hay âm đạo, gây ra co thít âm đạo, màng trinh không giãn hoàn toàn, âm đạo không được bôi trơn đầy đủ.

Són đái ở phụ nữ

Sự tăng áp lực đột ngột trong bụng được truyền đến bàng quang hoạt động bình thường mà không đến niệu đạo bị sa và như vậy nước tiểu có khuynh hướng bị rò vào lúc này.

Không phóng noãn liên tục

Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron

Các khối u buồng trứng

Một đợt ngăn ngừa phóng noãn trong 2 tháng bằng viên thuốc tránh thai làm cho các nang cơ năng biến mất

Bệnh viêm tiểu khung

Những phụ nữ có đau bụng dưới, khám thấy nhạy cảm đau ở phần phụ hoặc tử cung khi di động nên được cân nhác là bị PID và nên được điều trị bằng kháng sinh trừ khi có chẩn đoán

Sa tử cung

Đối với những phụ nữ lớn tuổi, không muốn giao hợp, bịt tắc một phần âm đạo là phẫu thuật đơn giản và có hiệu quả, Treo tử cung vào thành bụng

Sa sinh dục

Sa tiểu tràng cũng có thể kèm theo sa tử cung hoặc có thể tiếp theo cắt tử cung khi mà các phần nâng đỡ vòm ầm đạo bị yếu đi hoặc là túi cùng ở sâu

Ung thư âm hộ

Cũng như những tổn thương tế bào lát của cổ tử cung, sự loạn sản ở các mức nặng nhẹ khác nhau của âm hộ bây giờ đã được nhận biết, Hệ thống phân độ về sự tạo u

U xơ tử cung

Ở phụ nữ có thai, u xơ đôi khi gây thêm các nguy cơ xảy thai, ngôi bất thường, không lọt được, chuyển dạ đẻ non, đau khu trú, đẻ khó.

Polip cổ tử cung

Những khối polip có thể nhìn thấy được trong lỗ cổ tử cung qua đặt mỏ vịt, Cần phân biệt các polip cổ tử cung với các bệnh lý tân tạo dạng polip của niêm mạc tử cung

Ung thư niêm mạc tử cung: ung thư thân hoặc đáy tử cung

Những phiến đồ Papanicolaou của cổ tử cung thỉnh thoảng cũng cho thấy được những tế bào niêm mạc tử cung không điển hình nhưng chúng không luôn là công cụ để chẩn đoán.

Ung thư cổ tử cung

Những dấu hiệu hay gặp nhất là rong kinh, ra huyết thấm giọt sau giao hợp và loét cổ tử cung. Có thể có máu hoặc mủ, có mùi, không gây ngứa, có thể xuất hiện sau xâm nhiễm.

Ung thư trong biểu mô của cổ tử cung

Chẩn đoán phỏng chừng bằng phương pháp tế bào học sàng lọc ở một quần thể không có triệu chứng và không nhìn thấy có thay đổi gì đại thể ở cổ tử cung

Hậu quả của tiếp xúc với diethylstilbestron trong tử cung

Hiện nay tất cả các phụ nữ phơi nhiễm đều được khuyên bước đầu soi cổ tử cung kiểm tra, sơ bộ tìm những vùng biểu mô bất thường của âm đạo vậ cổ tử cùng

Nang và áp xe tuyến Bartholin

Mủ hay chất tiết dịch lấy ra từ tuyến cần được nuôi cấy để tìm lậu cầu, chlamydia và các mầm bệnh khác và để điều trị cho phù hợp; thường thì ngâm nước ấm có thể có ích

Viêm cổ tử cung

Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.

Viêm âm đạo

Có thể kiểm tra pH của âm đạo, pH thường là cao hơn 4,5 khi bị nhiễm Trichomonas và có thể nhiễm vi khuẩn trong âm đạo. Tiếp đó, khám bằng hai tay để xem tiểu khung có bị viêm nhiễm không.

Thống kinh

Thuốc được dùng khi bắt đầu ra máu kinh sẽ tránh được việc dùng thuốc cẩu thả khi mới có thai, Thuốc được dùng tiếp tục trên cơ sở 2, 3 ngày

Hội chứng trước hành kinh

Nhiều loại vitanim và chất khoáng liều tương đối cao được gợi ý dùng trong hội chứng này, nhưng không một loại nào tỏ ra có ích, qua các nghiên cứu mù kép và lại có một số tác dụng phụ không mong muốn.

Chảy máu âm đạo sau mãn kinh

Âm hộ và âm đạo cần được kiểm ra để tìm ra vùng chảy máu, những vết loét hoặc những khối u. Cần làm phiến đồ tế bào học lấy ở cổ tử cung và túi cùng âm đạo. Có thể thấy được tế bào ung thư bị bong ra.

Chảy máu bất thường tiền mãn kinh

Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.