Tổn thương loét trong miệng

2016-09-08 04:17 PM

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm loét lợi hoại tủ (bệnh miệng chiến hào, nhiễm khuẩn Vincent)

Viêm loét lợi hoại tử thường do nhiễm xoắn khuẩn và trực khuẩn, hình thoi. Bệnh thường gặp ở người lớn sau sang chấn tinh thần. Các bệnh hệ thống cũng có thể là những yếu tố gây nên rối loạn này. Về lâm sàng, đau viêm lợi cấp và hoại tử, thường chảy máu, hôi miệng, sốt và có hạch cổ. Nếu có thể thì ngoài việc thay đổi hoặc làm mất các yếu tố gây bệnh cần điều chỉnh lại chế độ ăn không đầy đủ, súc miệng bằng nước oxy già ấm, uống penicillin (250 mg 3 lần/ngáy trong 10 ngày). Nạo vét răng lợi có thể cần thiết.

Loét áp tơ (loét Canker, viêm loét miệng)

Loét áp tơ thường gặp và dễ nhận biết. Nguyên nhân của bệnh vẫn chưa rõ ràng. Bệnh được phát hiện ở niêm mạc không sừng hóa (như niêm mạc má, niêm mạc môi, không thấy ở lợi hoặc khẩu cái). Chúng có thể là một hoặc nhiều ổ, hay tái phát, biểu hiện những vết loét nhỏ đau (thường 1- 2 mm; đôi khi 1- 2cm) ổ loét tròn với những đám sợi màu vàng xám, được bao bọc bởi bựa màu đỏ. Giai đoạn đau kéo dài 7 - 10 ngày và khỏi hoàn toàn trong 1- 3 tuần.

Điều trị không đặc hiệu. Bôi steroid tại chỗ (triamcinolon acetonid 0,1% hoặc mỡ fluocinonid, 0,05% trong chất nền dính (Orabase Plain) có tác dụng làm giảm triệu chứng. Dùng 1 tuần prednisolon liều cao (40 - 60 mg/ngày) có tác dụng tốt.

Những vùng loét miệng lớn hoặc tái phát có thể thứ phát sau xung huyết từng đám hoặc dị ứng thuốc, nhiễm mụn rộp cấp pemphigut, dạng pemphigut, địa y phẳng có mụn nước, bệnh Behcet hoặc bệnh lý viêm đường ruột. Ung thư tế bào dát đôi khi biểu hiện như loét áp tơ. Khi chẩn đoán không rõ ràng, cần chỉ định sinh thiết.

Viêm miệng do herpes

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn. Những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch, phản ứng của nhiễm virus herpes thường gặp và có thể nặng. Trên lâm sàng, lúc đầu cảm giác bỏng rát, sau đó là những bọng nước nhỏ điển hình, rồi vỡ ra tạo thành vảy.

Acyclovir (250 mg 5 lần/ngày) có thể làm ngắn thời gian điều trị và giảm đau. Chẩn đoán phân biệt gồm loét niêm mạc miệng cũng như ban đỏ đa hình thái, giang mai và ung thư.

Các tổn thương do virus Coxsackie (amidan trắng xám nhợt và loét vòm miệng của viêm miệng do herpes và loét môi trong bệnh tay chân và miệng) rất thường gặp ở trẻ em dưới 6 tuổi.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm họng và viêm amidan

Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.

Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.

Bệnh lý ống tai

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Nghe kém: chẩn đoán và điều trị

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.

Dị vật khí phế quản, thực quản

Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.

Rối loạn chức năng khứu giác

Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.

Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi

Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.

U thanh quản

Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.

Bệnh lý tai giữa

Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.

Liệt dây thanh âm

Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.

Bệnh lý vành tai

Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.

Chảy máu mũi

Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.

Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp

Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.

Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương

Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.

Viêm lưỡi và đau lưỡi

Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.

Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang

Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.

Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản

Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.

Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS

Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.

Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản

Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.

Chóng mặt do bệnh lý tai trong

Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.

Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng

Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.

Bệnh nấm candida

Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.

Chấn thương mũi

Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).

Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu

Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.