- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bạch sản là thương tổn màu trắng, không giống như nấm candida trong miệng, không thể lấy đi bằng cách quệt thông thường lên niêm mạc, ở những vùng này thường tổn thương nhỏ nhưng có thể có đường kính vài cm. Về tổ chức học, bạch sản có thể chỉ là tăng sừng hóa đáp ứng với những kích thích mạn tính (do răng, thuốc lá...), tuy nhiên khoảng 2 - 6% thấy có loạn sản hoặc ở giai đoạn sớm của ung thư biểu mô.
Hồng sản cũng giống như bạch sản, ngoài ra được xác định bởi những ban đỏ rõ rệt. Sự phân biệt này rất quan trọng vì khoảng 90% các trường hợp hồng sản hoặc bị quá sản hoặc là ung thư.
Ung thư biểu mô chiếm khoảng 90% các trường hợp ung thư miệng. Rượu và thuốc lá là những yếu tố dịch tễ chính. Chẩn đoán phân biệt với nấm candida miệng, dị sản tuyến nước bọt hoại tử, quá sản giả biểu mô, viêm lưỡi giữa hình thoi (?), bệnh viêm nang trợt như đám địa y dẹt bị trợt loét. Không nên nhầm với những mảng hắc tố màu nâu đen ở lợi - lan tỏa hay lốm đốm, thường là những mảng không trắng, có màu xanh đen của hàm răng, hoặc những rối loạn toàn thân khác có những mảng sắc tố (bệnh xơ - thần kinh, bệnh polip có tính gia đình, bệnh Addison). U hắc tố trong miệng rất hiếm.
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân. Nhập viện là đặc biệt cần cả cho chẩn đoán và điều trị sớm. Nhuộm khoang miệng bằng xanh toluidin 1% giúp cho việc chọn chỗ nghi ngờ nhất để sinh thiết. Thăm khám có hệ thống khoang miệng bao gồm bờ bên của lưỡi, sàn miệng, lợi, niêm mạc má, màn hầu, hốc amidan và sờ vùng cổ phát hiện hạch to; đây là những khám xét thường qui đặc biệt với những bệnh nhân trên 45 tuổi có hút thuốc và uống rượu quá mức. Khám trực tiếp hay soi ống mềm họng mũi, họng miệng, họng và thanh quản cần được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tai mũi họng đầu cổ hoặc bác sĩ chuyên điều trị tia. Chọc hút sinh thiết kín nhỏ có thể đựợc chỉ định nếu khám thấy có hạch to. Phát hiện sốm ung thư biểu mô là điểm mấu chốt để đạt kết quả tốt trong điều trị. Các tổn thương sâu dưới 4 mm thì khả năng bị di căn thấp. Hầu hết các bệnh nhân có khối u được phát hiện khi đường kính dưới 2 cm được chữa khỏi. Những tổn thương nhỏ điều trị tốt nhất bằng phẫu thuật cắt bỏ, thường dùng bằng laser. Điều trị bằng tia xạ có kết quả nhưng bệnh nhân có thể bị khô miệng, hoại tử xương hàm dưới, và không thể thực hiện được liều điều trị: lại với những trường hợp đó. Vì vậy những khối u to thường được điều trị bằng phối hợp cắt bỏ và tia xạ. Tạo hình lại nếu cần thiết thực hiện khi cắt bỏ khối u và có thể dùng vạt da cơ hoặc mảnh ghép tự do có nối mạch không có xương.
Bài viết cùng chuyên mục
Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang
Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.
Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp
Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.
Liệt dây thanh âm
Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.
U tuyến nước bọt
Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Bệnh lý vành tai
Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Bệnh lý ống tai
Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.
Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản
Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.
Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào
Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
U thanh quản
Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Đau tai: chẩn đoán và điều trị
Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.
Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid
Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.