- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh ở ốc tai gây nên điếc tiếp nhận, thường không phục hồi được. Phần lớn bệnh ốc tai gây nghe kém tiếp nhận hai bên như nhau. Khi có nghe kém tiếp nhận một bên hoặc mất cân đối nên nghĩ tới bệnh ở sau ốc tai. Bệnh ở dây VIII và hệ thần kinh thính giác trung ương đã được nói tới ở phần nghe kém do thần kinh. Những thành công bước đầu trong việc điều trị điếc tiếp nhận là ngăn chặn bệnh nặng lên và cải thiện chức năng bằng máy tăng âm và phục hồi thính giác.
Giảm thính lực tuổi già
Điếc tuổi già tăng dần, nghe giảm chủ yếu ở tần số cao, cân đối hai bên và tăng dần theo tuổi. Rất khó để tách biệt các yếu tố sinh bệnh khác nhau (như chấn thương âm) có thể gây điếc tuổi già, nhưng di truyền đóng vai trò quan trọng. Phần lớn các bệnh nhân đều thấy mất sự phân biệt lời nói đặc biệt trong môi trường ồn ào. Khoảng 25% số người 65 - 75 tuổi và 50% số người trên 75 tuổi có khó khăn khi nghe.
Chấn thương âm là nguyên nhân hay gặp thứ hai (sau điếc tuổi già) của điếc tiếp nhận. Những âm thanh cao hơn 85 dB có nguy cơ làm tổn thương ốc tai đặc biệt khi phải tiếp xúc lâu dài. Điển hình thì sức nghe bắt đầu mất ở tần số cao (đặc biệt ở 4000 Hz) và quá trình này sẽ ảnh hưởng tới các tần số tiếng nói khi tiếp xúc với tiếng ồn kéo dài. Trong những nguồn gây chấn thương âm thường gặp là máy công nghiệp, vũ khí, âm nhạc quá to. Trong những năm gần đây việc theo dõi tiếng ồn ở nơi làm việc của các cơ quan hình thành nên các chương trình dự phòng làm giảm tần suất bị điếc nghề nghiệp. Mọi người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở những người đã có nghe kém nên đeo nút tai khi tiếp xúc với tiếng ồn trung bình và những bao tai được chế tạo đặc biệt khi tiếp xúc với tiếng nổ như súng bắn.
Chấn thương thực thể
Chấn thương vùng đầu tác dụng lên tai trong giống như những chấn thương thính giác nặng. Giảm nghe có thể xuất hiện sau các đụng giập đơn thuần và nhất là sau chấn thương xương sọ.
Nhiệm độc tai
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu, nhiều loại thuốc chống ung thư, đáng chú ý là cisplatin. Ba nhóm sau có thể gây nên nghe kém không hồi phục thậm chí chỉ với liều điều trị. Khi dùng những loại thuốc này, điều quan trọng là phải xác định được những bệnh nhân có nguy cơ cao như có nghe kém từ trước hoặc giảm chức năng thận. Những bệnh nhân dùng nhiều chất gây nhiễm độc tai cùng lúc có nguy cơ bị nhiễm độc hợp lực. Những phương pháp có tác dụng làm giảm nguy cơ nhiễm độc tai là đo thính lực hàng loạt, phát hiện với dung dịch đỉnh, và thay thế nếu có thể được bằng thuốc không độc tương ứng.
Điếc tiếp nhận đột ngột
Điếc đột ngột ở một tai có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng thường gặp ở tuổi già. Điếc đột ngột hay gặp nhất là do tắc mạch đột ngột của động mạch tai trong hoặc nhiễm virus tai trong, vì tiên lượng có những bệnh nhân điếc không hồi phục, trong khi đó có những bệnh nhân lại hồi phục hoàn toàn. Tuy còn nhiều tranh cãi nhưng việc dùng corticosteroid đã làm tăng sự hồi phục. Thường dùng prednisolon 80 mg/24giờ sau đó giảm liều trong 10 ngày.
Các ngụyên nhân khác gậy điếc tiếp nhận
Có rất nhiều nguyên nhân ít gặp khác gây điếc tiếp nhận. Bệnh rối loạh chuyển hóa (đái tháo đường, suy tuyến giáp, tăng lipid máu, suy thận), bệnh nhiễm khuẩn (sởi, quai bị, giang mai), bệnh tự miễn (viêm khớp, luput ban đỏ), yếu tố lý học (điều trị tia xạ) và những hội chứng di truyền là những ví dụ chính. Việc xác định điếc tiếp nhận do chuyển hóa, nhiễm khuẩn, hoặc bệnh tự miễn đặc biệt quạn trọng, đôi khi bệnh có thể phục hồi bằng điều trị nội khoa. Hội chứng Meniere và viêm mê nhĩ sẽ được thảo luận ở phần rối loạn tiền đình.
Bài viết cùng chuyên mục
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Viêm mũi dị ứng
Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
U tuyến nước bọt
Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Viêm tiền đình do mũi
Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Các khối u lành tính trong mũi
Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.
Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp
Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.
Viêm lưỡi và đau lưỡi
Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.
Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào
Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Đau tai: chẩn đoán và điều trị
Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.