Nghe kém: chẩn đoán và điều trị

2016-08-27 11:16 AM

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Phận loại

Nghe kém dẫn truyền

Do rối loạn chức năng của tai ngoài hoặc tai giữa. Có 4 cơ chế, mỗi loại làm tổn thương từng phần sự dẫn truyền âm thanh vào tai trong.

Tắc nghẽn (thí dụ, nút ráy).

Khối choán chỗ (thí dụ, dịch trong tai giữa).

Xơ cứng (thí dụ, xốp xơ tai).

Mất liên tục (thí dụ, gián đoạn xương con).

Nghe kém dẫn truyền thường có thể điều trị được bằng nội khoa, bằng ngoại khoa hoặc bằng cả hai.

Nghe kém tiếp nhận

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti. Các nguyên nhân thường gặp là chấn thương âm, nhiễm độc tai, tuổi già nghe kém. Nghe kém tiếp nhận không điều trị được bằng nội khoa hoặc ngoại khoa nhưng cố thể ngăn chặn hoặc làm cho ổn định (không tiến triển thêm).

Nghe kém do thần kinh

Nghe kém do thần kinh xảy ra với những tổn thương của dây VIII, nhân thính giác, đường dẫn truyền lên vỏ não, vùng thính giác của vỏ não. Đây là những nguyên nhân ít gặp nhất trên lâm sàng của nghe kém. Bao gồm u dây thần kinh thính giác, bệnh xơ cứng rải rác và bệnh lý mạch máu não.

Dịch tễ học

Nghe kém dẫn truyền ở người lớn hay gặp nhất là do nút ráy hoặc do mất chức năng tạm thời của vòi nhĩ kết hợp với nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Nghe kém dẫn truyền kéo dài thường do nhiễm khuẩn mạn, chấn thương, xốp xơ tai.

Nghe kém tiếp nhận ở người lớn là thường gặp, tiến triển dần dần, sức nghe mất nhiều ở tần số cao, tăng dần theo tuổi. Với trường hợp điển hình là không thay đổi. Ngoài ảnh hưởng của tuổi tác, nguyên nhân của nghe kém tiếp nhận thường gặp khác là tiếp xúc nhiều với tiếng ồn, chấn thương vùng đầu, bệnh hệ thống như đái tháo đường.

Đánh giá sức nghe (đo thính lực)

Trong phòng yên tĩnh, sức nghe của bệnh nhân có thể được đánh giá bằng cách yêu cầu bệnh nhân nhắc lại những từ được nói thầm, nói bình thường hoặc nói to.

Âm mẫu được dùng cho việc chẩn đoán phân biệt điếc dẫn truyền và tiếp nhận. Dùng âm mẫu 512 Hz, vì những tần số dưới mức này khó thể hiện đáp ứng (tiếp xúc).

Với nghiệm pháp Weber, âm thoa được đặt lần lượt trên trán hoặc răng cửa. Trong nghe kém dẫn truyền sẽ nghe rõ hơn ở bên tai bị bệnh, ngược lại trong nghe kém tiếp nhận nghe rõ hơn ở bên tai lành. Với nghiệm pháp Rinne, âm thoa được đặt lần lượt lúc ở mặt xương chũm, lúc ở phía trước của ống tai. Trong nghe kém dẫn truyền, đường xương nghe trội hơn đường khí, còn trong điếc tiếp nhận thì ngược lại.

Đo thính lực (hoàn chỉnh) được thực hiện bởi nhà thính học trong phòng cách âm. Các ngưỡng nghe đơn âm tính theo dB được đo trong các khoảng từ 250 đến 8000 Hz. Các tần số tiếng nói chính ở khoảng từ 500 đến 3000 Hz) đối với cả đường khí và đường xương.

Điếc dẫn truyền làm tăng khoảng cách giữa ngưỡng nghe đường khí và đường xương trong khi đó nghe kém tiếp nhận các ngưỡng nghe đường khí và đường xương cùng giảm xuống. Ngưỡng nghe bình thường là từ 0 đến 20 dB. Tương ứng với âm của tiếng nói thầm. Nghe kém nhẹ được xác định bởi ngưỡng nghe 20 - 40 dB (tương đương tiếng nói nhỏ). Nghe kém vừa có ngưỡng nghe 40 - 60 dB (tiếng nói bình thường). Nghe kém nặng có ngưỡng nghe 60 - 80 dB (tiếng nói to). Điếc đặc có ngưỡng nghe trên 80 dB (hét to). Sự rõ ràng của nghe thường bị tổn thương trong nghe kém do thần kinh. Nó được đánh giá bằng test phân biệt lời nói, kết quả trả lời tính theo tỷ lệ phần trăm trả lời đúng (90 - 100% là bình thường).

Vị trí của tổn thương tương ứng với mất cảm giác thần kinh, hoặc nằm ở ốc tai hoặc ở trung tâm thính giác, có thể được xác định bằng sự trả lời của kích thích âm điện não.

Những bệnh nhân phàn nàn vì giảm nghe cần được đánh giá về thính học trừ những trường hợp quá dễ dàng (như nút ráy) hoặc những bệnh chỉ diễn ra trong giai đoạn ngắn (như viêm tai cấp). Kiểm tra về thính lực không đặt ra với người lớn có sức nghe bình thường, trừ khi họ tiếp xúc nhiều với những tiếng động có thể gây tổn thượng, hoặc đã quá 65 tuổi. Sau đó nên kiểm tra lại vài năm 1 lần.

Phục hồi sức nghe

Những bệnh nhân bị điếc mà không thể điều trị được bằng nội khoa có thể dùng máy tăng âm.

Các mảy trợ thính hiện đại không làm méo tiếng và được thu nhỏ để đút vào trong ống tai. Để có hiệu quả tốt, các máy trợ thính phài được chọn lọc kỹ để phù hợp với từng loại nghe kém. Ngày nay đã có những máy trợ thính có chương trình xử lý dữ liệu để dùng và hứa hẹn có thể cải thiện khả năng nhận biết tiếng nói, đặc biệt trong những trường hợp khó nghe.

Ngoài các máy trợ thính, có nhiều phương tiện khác có thể giúp bệnh nhân giao tiếp với cá nhân hoặc nhóm, giúp nghe chương trình vô tuyến phát thanh và điện thoại giao tiếp. Những người điếc đặc được cấp điện cực ốc tai, đây là một thiết bị điện tử được phẫu thuật cấy vào để kích thích thần kinh nghe tạo nên sự phục hồi chức năng nghe có hiệu quả về mặt xã hội cho hầu hết người lớn bị điếc mắc phải.

Bài viết cùng chuyên mục

Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng

Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.

Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ

Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.

Dị vật khí phế quản, thực quản

Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.

Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp

Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.

Liệt dây thanh âm

Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.

U thanh quản

Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.

Các rối loạn thanh quản hay gặp

Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.

Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản

Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.

U tuyến nước bọt

Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.

Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản

Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.

Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu

Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.

Cắt amidan

Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.

Viêm họng và viêm amidan

Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.

Tổn thương loét trong miệng

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.

Viêm lưỡi và đau lưỡi

Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.

Bệnh nấm candida

Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.

Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng

Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.

Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid

Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.

Các khối u lành tính trong mũi

Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.

Chấn thương mũi

Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).

Chảy máu mũi

Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.

Rối loạn chức năng khứu giác

Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.

Viêm mũi dị ứng

Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.

Bệnh nấm mucor mũi nội sọ

Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.

Viêm tiền đình do mũi

Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.

Viêm xoang cấp

Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.

Viêm mũi do virus: cảm cúm

Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.

Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS

Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.

Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương

Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.

Chóng mặt do bệnh lý tai trong

Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.

Ù tai: bệnh lý tai trong

Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.

Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.

Đau tai: chẩn đoán và điều trị

Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.

Bệnh lý tai giữa

Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.

Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi

Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.

Bệnh lý ống tai

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Bệnh lý vành tai

Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.

Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang

Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.