- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
U thượng mô thông thường có xuất độ cao nhất, chiếm 75% các u buồng trứng và khoảng 90% các ung thư buồng trứng.
Phân loại dựa trên các tiêu chuẩn sau đây:
Loại mô học:
Có 5 loại mô học và 8 loại u.
Mức độ ác tính:
Các u được phân ra u lành, u giáp biên ác, u ác. U giáp biên ác có những đặc điểm mô học như carcinom tuyến nhưng không có dấu hiệu xâm nhập vào mô đệm. U được chẩn đoán là giáp biên ác khi có ít nhất 2 trên 4 tiêu chuẩn như sau:
Thượng mô nẩy chồi.
Thượng mô xếp nhiều tầng.
Có hoạt động phân bào.
Có dị dạng nhân.
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Thượng mô xếp nhiều tầng cũng là hậu quả của sự tăng sản quá mức thượng mô, và là yếu tố rất giá trị trong chẩn đoán u dịch nhầy.
Phân bào nhiều, phân bố không đồng đều trong khối u.
Tìm kiếm dấu hiệu không xâm nhập vào mô đệm, để khẳng định u là loại giáp biên ác phải được thực hiện trên tối thiểu hơn 10 mẫu sinh thiết (Hart và Norris, 1973). Đối với u nhầy, phải lấy mẫu mỗi 2 cm.
U Brenner có nhiều thành phần sợi hơn thành phần thượng mô. Đối với các u buồng trứng khác có nhiều mô sợi thì tên gọi u được thêm từ sợi chẳng hạn u tuyến-sợi, u tuyến bọc-sợi.
Hầu hết u thượng mô thông thường phát triển trong buồng trứng hoặc vừa phát triển trong và ở bề mặt buồng trứng. Nhưng có một số u dịch trong chỉ phát triển ở bề mặt của buồng trứng, chẳng hạn u nhú hay u dịch trong bề mặt.
Các u dịch trong
Các u dịch trong (lành và ác) chiếm 50% các u buồng trứng.
Carcinom tuyến bọc dịch trong và u giáp biên ác dịch trong chiếm 35-40% các ung thư buồng trứng. Đối với u dịch trong: 70% lành , 5-10% giáp biên ác, 20-25% ác. Tuổi xuất hiện u lành từ 30-60 tuổi, u ác từ 40-70 tuổi.
Đại thể:
Không có tiêu chuẩn nào phân biệt được u lành với u giáp biên ác hay với u ác. Đôi khi, u dịch trong giáp biên ác và u ác có các nhú nhiều hơn.
U bọc dịch trong lành tính thường là dạng u tuyến bọc. U có dạng bọc một thùy hay nhiều thùy, vỏ bao trơn láng hoặc có nhú nhỏ. U ở cả hai buồng trứng trong 7-12% các trường hợp (Scully, 1979).
U bọc dịch trong giáp biên ác ở cả hai buồng trứng trong 25-34% các trường hợp. 16-18% các trường hợp cho di căn ngoài buồng trứng. Kích thước u thường thay đổi từ 5-20cm đường kính. Trong tất cả các trường hợp có nhiều nhú trong lòng bọc. Trong 1/4 các trường hợp có nhú ở bề mặt.
U bọc dịch trong ác tính (carcinom tuyến bọc-dịch trong) trong 66% trường hợp ở cả hai buồng trứng và có di căn ngoài buồng trứng trong 80% các trường hợp. Thường u đặc hay bọc hay nửa đặc nửa bọc. Khi đặc, u cứng, bờ, thường xuất huyết hoại tử và không phân biệt được với các loại u ác buồng trứng khác. Khi nửa đặc nửa bọc, khó phân biệt u với u giáp biên ác.
Vi thể:
Thượng mô lót u dịch trong là thượng mô vuông hay trụ thấp, đều đặn, nhân nằm ở giữa tế bào. Không có hình ảnh phân bào. Các tế bào thượng mô có chứa chất kháng men diastase, có các phản ứng PAS, Alcian blue và mucicarmine dương tính Có thể thấy các thể vôi (cũng gọi là thể cát) trong mô đệm. Dưới lớp thượng mô là mô liên kết thưa với rải rác các mạch máu.
U dịch trong giáp biên ác thực tế là u có độ ác tính thấp với lớp thượng mô lót tăng sản thành nhiều lớp tế bào, với các nhú vi thể, các nhú này có thể tróc ra và trôi trong u bọc, nhân dị dạng, phân bào ít hơn 4 trong 10 quang trường rộng. Thượng mô với các tế bào dị dạng, các đám, các nhú tế bào không xâm nhập vào mô đệm. Trong 20-40% các trường hợp có các thể vôi tròn.
Carcinom tuyến bọc dịch trong xâm nhập vào mô đệm, có nhiều mức độ biệt hoá khác nhau: rõ, vừa, kém. Trong dạng biệt hoá rõ, có dạng nhú rõ rệt, với trục liên kết ở giữa, và thượng mô đa tầng dị dạng bao phủ trục. Dạng biệt hoá vừa, các nhú chen chúc nhau, khó nhận dạng trục liên kết của các nhú.
Dạng biệt hoá kém, các tế bào xếp thành dãy, dải. Nhân tế bào thượng mô dị dạng, to nhỏ không đều, có phân bào. 32,5% carcinom tuyến bọc dịch trong có nhiều thể vôi tròn, và theo Aure thì tiên lượng khá hơn. Như trong u lành, bờ tế bào thượng mô cực ngọn nhuộm dương tính với PAS, mucicarmine và Alcian blue.
U dịch trong ác tính thấp và carcinom tuyến bọc-dịch trong buồng trứng thường cho di căn vào mạc nối lớn. Di căn hạch hiếm gặp hơn và ở giai đoạn trễ hơn.
Tiên lượng các carcinom tuyến bọc dịch trong buồng trứng là 35% có thời gian sống thêm 5 năm. Tiên lượng này còn tùy thuộc vào giai đoạn lâm sàng và độ biệt hoá của u.
Trong giai đoạn I, 50-70% bệnh nhân sống thêm 5 năm. Giai đoạn II, chỉ còn 40-50%. Giai đoạn III, chỉ còn 5-8%. Giai đoạn IV, gần như 0%.
Nhưng tiên lượng các u dịch trong ác tính thấp hoàn toàn khác. 90-95% sống thêm 5 năm. 80-90% sống thêm 10 năm. 72-86% sống thêm 15 năm.
Các u dịch nhầy
U dịch nhầy là u mà thượng mô có tế bào nhầy, tế bào này tương tự như thượng mô cổ tử cung hay thượng mô ruột, và thỉnh thoảng có tế bào ưa bạc và hiếm khi có tế bào Paneth.
U chiếm khoảng 15-20% u buồng trứng. Trong các u dịch nhầy, 85% lành, 6% ác tính thấp và 9% ác tính.
Carcinom tuyến bọc dịch nhầy chiếm khoảng 6-10% ung thư buồng trứng.
U bọc dịch nhầy ác tính thấp và ác tính thường gặp ở lứa tuổi 40-70 tuổi. U lành thường gặp ở lứa tuổi 30-50 tuổi.
Đại thể:
U bọc dịch nhầy thường là loại có kích thước lớn nhất trong các u buồng trứng, thường từ 15-30cm. U thường có nhiều bọc, vách mỏng, chứa dịch sền sệt, vỏ bao trơn láng.
U bọc dịch nhầy ác tính thấp và carcinom tuyến bọc dịch nhầy đôi khi rất giống u lành, nhưng có nhiều vùng đặc hơn và nhiều nhú hơn trên diện cắt.
5% u lành ở cả hai buồng trứng 8-10% u ác tính thấp ở cả hai bên và 10-20% u ác tính ở cả hai buồng trứng.
Vi thể:
U bọc dịch nhầy được lót bởi một lớp tế bào trụ cao chế tiết chất nhầy, nhân đều đặn, nằm ở đáy.
U bọc dịch nhầy ác tính thấp có thượng mô trụ nhầy đa tầng, tế bào với nhân dị dạng, không đều, tăng sắc, hạt nhân to. Thỉnh thoảng có hình ảnh phân bào. Các tế bào thượng mô hợp thành tuyến, tăng sản nhiều với rất nhiều nhú trong lòng bọc. Các bọc thường san sát nhau, biến dạng do chèn ép lẫn nhau, có rất ít mô đệm xen kẽ giữa các bọc.
U không xâm nhập mô đệm như u dịch nhầy ác, nhưng đôi khi trên vi thể rất khó đánh giá u xâm nhập hay không xâm nhập, nên Hart và Norris đề xuất u ác tính thấp nếu 3 lớp tế bào trở lại, nếu nhiều hơn 3 lớp, u ác tính thật sự.
U với tế bào thượng mô dạng sàng hay u có 4 lớp tế bào trở lên hay có thay đổi của mô đệm được đánh giá là u xâm nhập hay ác tính thật sự.
U dịch nhầy ác (carcinom tuyến bọc dịch nhầy) có nhiều dạng: biệt hoá rõ, biệt hoá vừa và biệt hoá kém. Dạng biệt hoá rõ có các bọc hay tuyến phủ bởi các tế bào nhầy, cao, với ít phân bào, dạng biệt hoá vừa có các tuyến dị dạng hơn, nhiều phân bào hơn và trong dạng biệt hoá kém, các tế bào tuyến xếp thành những dây tế bào, những ổ tế bào không đều nhau, rải rác trong mô đệm sợi, có khi đâu lưng vào nhau. Khoảng 15% u ác tính thấp cho di căn ngoài buồng trứng lúc được chẩn đoán. Khoảng 20% u ác tính cho di căn lúc phẫu trị, và ở giai đoạn trễ, có di căn máu và di căn hệ limphô.
Tiên lượng u dịch nhầy ác tính thấp tốt, 81-91% sống thêm 5 năm, 68-87% sống thêm 10 năm. Tiên lượng u dịch nhầy ác tính là 50-60% sống thêm 5 năm, 34-39% sống thêm 10 năm.
U dạng nội mạc tử cung
U chiếm 5% u buồng trứng. Carcinom tuyến và u tuyến ác tính thấp chiếm 15-25% ung thư buồng trứng. U lành và u ác tính thấp rất hiếm gặp. Bệnh nhân thường khoảng 53 tuổi.
Đại thể:
30% các ung thư dạng nội mạc tử cung ở cả hai buồng trứng. U ác tính thấp thường dạng bọc, chứa dịch xuất huyết.
Vi thể:
Các tuyến chen chúc nhau, lưng đâu lưng vào nhau, không đều, tế bào thượng mô dị dạng, ít phân bào. U không xâm nhập vào mô đệm.
Carcinom dạng nội mạc tử cung thường có dạng bọc, đường kính từ 2-35cm. Lòng bọc bị che lấp một phần bởi các nhú bở. Có khi u đặc, có những vùng hoại tử hay xuất huyết.
U có dạng biệt hoá rõ với các ống tuyến, biệt hoá vừa, hay biệt hoá kém với các tế bào không xếp thành tuyến.
U có thể kèm theo sự hiện diện của các tế bào gai trong 30% các trường hợp. Nếu tế bào gai lành, là dạng adenoacanthôm, nếu tế bào gai ác tính thì là dạng carcinom tuyến-gai.
Trong 15-20% các trường hợp ung thư dạng nội mạc tử cung có kèm ung thư tuyến nội mạc tử cung. Thường đây là hai ung thư cùng phát triển độc lập và đồng thời với nhau.
Tiên lượng khá tốt, 50% sống thêm 5 năm và 35-40% sống thêm 10 năm. Tiên lượng này không thay đổi nếu có ung thư nội mạc tử cung kèm theo.
U hỗn hợp trung bì
Hiếm gặp, thường sau mãn kinh và ở tuổi trung bình là 58 tuổi. U có hai thành phần: mô liên kết và thượng mô.
60% u hỗn hợp trung bì là loại đa dạng, với mô đệm dị dạng, có nhiều tế bào hình thoi, nhân đậm, xếp san sát nhau, nhiều hình ảnh phân bào. Có nơi mô đệm có mô sụn, mô xương, mô dạng xương, mô cơ vân.
Thượng mô thường có dạng ung thư tuyến với nhiều mức độ biệt hoá khác nhau.
Đại thể:
U chỉ ở một buồng trứng, đường kính trung bình 14cm. U nửa đặc nửa bọc và có nhiều vùng xuất huyết hoại tử. 10% u ở cả hai buồng trứng.
Tiên lượng sống là 12 tháng cho u đơn dạng và 6 tháng cho u đa dạng.
U tế bào sáng
Trước kia u tế bào sáng được coi như có nguồn gốc từ trung thận. Hiện nay, với hình ảnh siêu cấu trúc, u được xếp vào u có nguồn gốc từ ống Mller như những u thượng mô khác. 24% các u tế bào sáng có kết hợp với bệnh lạc nội mạc tử cung, và trong ung thư nội mạc tử cung cũng có dạng ung thư với tế bào sáng, càng củng cố nguồn gốc u này từ ống Mller. Hơn nữa, tiên lượng u tế bào sáng cũng tương tự như tiên lượng u dạng nội mạc tử cung. U chiếm 5% các ung thư buồng trứng, với tuổi trung bình 53 tuổi.
Đại thể:
Hầu hết các u tế bào sáng ác là u đặc. U thường có dạng bọc, lòng bọc bị bít hầu hết bởi mô u tăng sản. U thường chỉ có một bọc. Xẻ đôi mô u màu vàng nhạt. 3% u ở cả hai buồng trứng.
Vi thể:
U có dạng ống, dạng tuyến, dạng nhú, dạng nang, nằm rải rác trong mô đệm sợi. Các tế bào thượng mô lót có dạng đầu đinh, nhân to, bào tương ít và phình ra ở cực ngọn tế bào hoặc tế bào vuông hay trụ, bào tương sáng.
U này thường phối hợp với ung thư dịch trong hay ung thư dạng nội mạc tử cung.
U Brenner
U Brenner là u sợi-thượng mô với mô đệm tương tự như mô đệm buồng trứng và các ổ tế bào thượng mô chuyển tiếp như thượng mô tiết niệu. Nhân tế bào thượng mô thường có một rãnh như hạt cà phê.
U Brenner chiếm 2-3% u buồng trứng. 2% u Brenner ác tính. U thường gặp ở lứa tuổi 40-50 tuổi, u ác thường gặp ở lứa tuổi 50-60 tuổi.
U Brenner lành thường ở hai buồng trứng trong 6% các trường hợp. U ác thường chỉ ở một buồng trứng.
Đại thể:
Hầu hết u Brenner là u đặc, chắc, mặt cắt cuộn, trắng xám. U kích thước thay đổi, chỉ thấy được trên vi thể hoặc có đường kính từ 2-8cm. Trong u đặc có thể có nhiều nang nhỏ. U không có vỏ bao.
Vi thể:
Các ổ tế bào thượng mô đặc hay nang hóa, nằm rải rác trong mô đệm dày đặc tế bào hình thoi. Các tế bào thượng mô đa diện, lạt màu, bào tương ái toan, nhân bầu dục với một rãnh dọc như hạt cà phê.
U thường phối hợp với u bọc dịch nhầy và u quái dạng bọc.
U Brenner tăng sản thường có dạng u bọc nhiều thùy, trong bọc nhú. U Brenner ác có nhiều vùng đặc hơn và có hoại tử.
U Brenner tăng sản có dạng bọc được lót bởi một lớp thượng mô chuyển tiếp có từ 8-20 lớp tế bào với ít dị dạng tế bào. Rải rác có một vài hình ảnh phân bào. U không xâm nhập mô đệm.
U Brenner tăng sản là u lành tính.
Trong u Brenner ác, thành phần ác tính là ung thư thượng mô chuyển tiếp, ung thư gai hay ung thư không biệt hoá. U xâm nhập mô đệm.
U hỗn hợp thượng mô
U hỗn hợp thượng mô phối hợp ít nhất hai trong năm loại mô học chính của u thượng mô thông thường. Các loại này phải tượng trưng ít nhất cho 10% thể tích u.
Các dạng u hỗn hợp thượng mô thường gặp là:
U Brenner - u dịch nhầy.
U dịch trong - u dạng nội mạc tử cung.
U dịch nhầy - u dạng nội mạc tử cung.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh ung thư gan
Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.
Giải phẫu bệnh viêm dạ dày
Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.
Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú
Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm
Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán ( ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Giải phẫu bệnh khối u
U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.
Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu
Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi
Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL
Giải phẫu bệnh khớp xương
Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.
Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh
Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Lịch sử giải phẫu bệnh
Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.
Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm
Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.
Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt
Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.
Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman
Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.
Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng
Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào: