- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
U của đường mật ngoài gan có thể là u lành hoặc ung thư, có thể có ở các ống mật hoặc ở túi mật.
Các loại u như u sợi, u cơ, u thần kinh, u mạch máu, các ung thư của các loại trên, u carcinoid cũng có ở đường mật và có các đặc tính giống như ở các nơi khác. Nhưng về phương diện lâm sàng và xuất độ bệnh, thì các loại u sau đây quan trọng hơn: u nhú, u tuyến, u tuyến-cơ của túi mật, carcinom của ống dẫn mật và carcinom của bóng Vater.
U nhú, u tuyến, u tuyến-cơ của túi mật
U nhú và u tuyến là 2 loại u lành thượng mô lót túi mật. U nhú thường có cuống và có nhánh. U tuyến thường là tổn thương dày, phẳng, không có cuống. Cả 2 loại đều nhỏ dưới 1cm khó nhận thấy và dễ gây nhầm lẫn với tình trạng tăng sản các tế bào cơ trơn tạo thành một loại u cơ trơn bao bọc các khoảng tuyến dạng bọc lót bởi tế bào thượng mô trụ, được gọi là u tuyến-cơ. Các u này chỉ được chẩn đoán khi chụp X quang túi mật, không ác tính. Riêng u nhú, do có nhánh, có thể là nơi bắt đầu cho sự hình thành sỏi mật.
Carcinom của túi mật
Là loại ung thư thường gặp nhất của túi mật, có xuất độ cao hơn so với u lành, với tần suất 1/2000-1/3000 các trường hợp tử thiết. Nữ giới mắc bệnh gấp 3-4 lần nam giới. Xuất độ bệnh tăng dần theo tuổi, cao nhất ở 70 tuổi (nữ giới) và 80 tuổi (nam giới). Ở các nước phương Tây, người da trắng mắc bệnh nhiều hơn người da đen. Người Mỹ da đen mắc bệnh nhiều hơn người châu Phi da đen. Phụ nữ da đỏ ở Mỹ là nhóm người có nhiều nguy cơ mắc bệnh.
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật. Các ung thư này được ghi nhận có trong 12-62% túi mật bị hoá vôi và có trong 0,5% các bệnh nhân bị sỏi mật. Nhưng chưa có bằng chứng rõ ràng chứng minh rằng sỏi mật và viêm trực tiếp gây ra ung thư. Người ta chỉ thấy các chất dẫn xuất của cholic acid có khả năng mạnh gây ung thư trên thực nghiệm. Các chất này thường kèm với các tình trạng được coi như là tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh ung như: bệnh sỏi mật, béo phì, điều trị bằng estrogen, điều trị bằng clofibrate, và dân Mỹ gốc Mexico.
Ngoài ra, xuất độ bệnh cao được ghi nhận ở các công nhân làm việc trong nhà máy sản xuất tơ sợi, cao su, kim loại, dù rằng chất sinh ung chính thức và đặc hiệu vẫn chưa được biết rõ.
Carcinom túi mật có 2 dạng đại thể: dạng xâm nhập và dạng chồi sùi. Vị trí thường có tổn thương nhất là đáy và cổ túi mật.
Dạng xâm nhập, thường gặp nhất, với hình thái tổn thương là chỗ cứng, dày lên, ranh giới không rõ ràng ở vách túi mật. Bề mặt tổn thương có thể bị loét, và u thường lan rộng ra thanh mạc dưới dạng những cục nhỏ không đều hoặc xuyên qua vách túi mật đến nền túi mật ở gan. Trên diện cắt gan, cấu trúc vách bị xóa, thay bằng mô u cứng, chắc, màu trắng. U có thể dò do xâm nhập mô lân cận.
Dạng chồi sùi vào lòng túi mật thành khối như bông cải đồng thời xâm nhập vách túi mật. phần chồi sùi có thể loét, hoại tử, xuất huyết. Khi u được phát hiện, thường đã có xâm nhập gan, đường mật, hạch vùng, có khi vẫn không có triệu chứng lâm sàng dù đã xâm nhập các cấu trúc lân cận. Đôi khi ống túi mật bị nghẽn, mật ứ trong túi mật được tái hấp thu và được thay bằng chất nhầy, tạo nên tình trạng ứ nước túi mật.
Vi thể:
Có 5 hình thái: thường nhất là carcinom tuyến biệt hoá rõ (khoảng 40%), sau đó là carcinom tuyến biệt hoá kém (30%), carcinom tuyến dạng nhú (10%), carcinom tế bào gai hoặc tuyến-gai.
Các loại kém biệt hoá thường dễ cho di căn và xâm nhập. Loại biệt hoá dạng tế bào gai ít cho di căn.
Các nơi dễ bị lan tràn ung thư là: gan, hạch quanh rốn phổi, phúc mạc, ống tiêu hoá, phổi.
Bệnh thường không có triệu chứng lâm sàng. Triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng (dưới 50% trường hợp). Các triệu chứng khác là vàng da, vàng mắt, kém ăn, sụt cân, có khối u trong ổ bụng, buồn nôn, ói mửa, có trong 1/4 các trường hợp. Nhiều trường hợp được phát hiện tình cờ khi mổ bụng vì bệnh khác hoặc vì bệnh sỏi túi mật. Chẩn đoán hầu hết dựa vào X quang túi mật (để phát hiện sỏi mật) với hình ảnh bất thường ở vách túi mật chụp nghiêng, đôi khi dựa vào siêu âm và kỹ thuật chụp cắt lớp điện toán.
Hoá trị và xạ trị không có hiệu quả. Phẫu trị thường không đủ vì tổn thương đã ăn lan. Nhiều tác giả đề nghị cắt túi mật sớm nếu phát hiện có sỏi để phòng ngừa ung thư.
Carcinom của bóng Vater và của ống dẫn mật
Gồm carcinom của các ống mật ngoài gan, kể cả đoạn ống mật nằm trong tá tràng (carcinom của bóng Vater).
Bệnh hiếm gặp hơn carcinom của túi mật, nhưng thường gặp hơn u lành (như u nhú và u tuyến). Tuổi mắc bệnh giống như trong carcinom của túi mật. Nam giới mắc bệnh hơi nhiều hơn nữ giới.
Bệnh không có liên quan với sỏi mật, nhưng có thể liên quan với tình trạng viêm nhiễm ống mật mạn tính. Ở Á Đông, tình trạng nhiễm sán lá gan Clonorchis sinensis, chủ yếu là Opisthorchis viverrini được coi như có liên quan đến sự hình thành u. Ngoài ra, không biết vì sao, các bệnh nhân bị viêm loét đại tràng có xuất độ bệnh hơi cao.
Các vị trí tổn thương lần lượt là: vùng quanh bóng Vater, ống mật chủ, đặc biệt là đầu dưới, chỗ nối của ống túi mật với ống mật chủ, ống gan và ống túi mật.
Hầu hết các u dù còn nhỏ đều có triệu chứng sớm, vì gây nghẹt túi mật, có 3 dạng: dạng chồi sùi và nhú, dạng cục trong ống, dạng xâm nhập và lan tỏa vào vách ống. Ở vùng bóng Vater, tổn thương có dạng khối nhỏ cuộn như não làm hẹp lỗ ống mật và lồi vào trong tá tràng. Hiếm khi cục u to hơn 2-3 cm. Niêm mạc tá tràng thường còn nguyên, hiếm khi loét và xuất huyết.
Dù ở vị trí nào, u cũng có thể gây tắc và phình phần trên. Nếu ở ống túi mật có thể làm túi mật ứ nước.
Vi thể:
Hầu hết là carcinom tuyến có hoặc không có tiết nhầy. Một số trường hợp có nhú hoặc có chuyển sản gai (carcinom tế bào gai hoặc adenô-acanthom). Tổn thương thường có nhiều mô đệm sợi.
Biểu hiện lâm sàng:
Thường có sớm, do tắc mật, với vàng da vàng mắt, ngứa, sụt cân, tăng alkaline phosphatase trong huyết thanh, có nhiều sắc tố mật trong nước tiểu, phân màu nhạt, kém hấp thu mỡ và các sinh tố tan trong mỡ. Đôi khi có sốt do biến chứng viêm ngược dòng.
Các triệu chứng trên cũng có thể có trong bệnh sỏi mật. Chẩn đoán phân biệt đôi khi phải dựa vào các kỹ thuật xét nghiệm như X quang đường mật qua gan hoặc ngược dòng, siêu âm, chụp điện toán cắt lớp, tìm tế bào u trong chất hút từ tá tràng. Tốt nhất là phẫu thuật thám sát.
Hầu hết các ung thư này không thể cắt bỏ được sau khi được chẩn đoán. Thời gian sống thêm trung bình là 6 tháng đến 1 năm. Riêng carcinom của bóng Vater có tiên lượng tốt hơn, 20-40% sống thêm 5 năm nhờ vào phẫu thuật cắt tá tràng và tụy tạng tận gốc (phẫu thuật Wipple).
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh tinh hoàn
Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày
Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu
Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.
Giải phẫu bệnh viêm tử cung
Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.
Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày
Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.
Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm
U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng
Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.
Giải phẫu bệnh u và giả u ruột
Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.
Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh
Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.
Giải phẫu bệnh ruột non
Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.
Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman
Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng
U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh
Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh
Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.
Giải phẫu bệnh của gan
Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc
Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.