- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú
Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú
Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
U sợi tuyến
Là loại u lành có xuất độ cao trong các u của vú. Thường xảy ra ở nữ giới có tuổi dưới 30 tuổi.
U lớn chậm và chịu ảnh hưởng của nội tiết tố estrogen. U khởi đầu giống như thay đổi sợi-bọc của vú, do tăng sản thượng mô các ống dẫn và tăng sản mạnh mô đệm sợi trong tiểu thùy. U thường hay có cùng lúc với thay đổi sợi-bọc.
Nguyên do tại sao một vùng mô vú lại có thể bị ảnh hưởng bởi sự mất quân bình nội tiết tố (tăng estrogen hoặc quá mẫn với estrin) thì chưa được giải thích. Mãn kinh thường làm ngưng sự phát triển của u trong khi thai kỳ và sự sinh sữa làm cho u lớn mau.
U thường chỉ có một khối đơn độc, nhưng đôi khi có thể có nhiều u, có cả hai vú hoặc có u tái phát. U không dính da, không dính mô chung quanh, không ảnh hưởng đến hạch limphô vùng nách.
U có kích thước trung bình nhỏ khoảng 3,5 cm, có vỏ bao rõ, đặc, chắc như cao su, màu trắng. Chỉ cắt ngang u được khi giữ u chắc, nếu không, u sẽ trượt và lăn khỏi dao. Mặt cắt của u thường phồng cao lên và đồng nhất. Đôi khi mặt cắt có thể có hạt nhỏ hoặc có đường nứt nhỏ giống như bản đồ. Nếu u có lâu ngày có thể có chỗ hoá hyalin hoặc đọng vôi.
Dưới kính hiển vi, hình ảnh chủ yếu của u là mô đệm sợi non, giầu tế bào và mịn bao bọc các đám tuyến hoặc bọc lót bởi thượng mô. Mô đệm sợi thường thưa, dạng lưới và đôi khi là mô nhầy. Còn ống tuyến rất thay đổi, hình dạng khác nhau giữa các trường hợp và khác nhau tùy theo vị trí trong cùng một u. Vì vậy, người ta chia u ra làm 3 loại:
U sợi-tuyến quanh ống
Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ. Mô liên kết bao quanh, chèn ép các đám ống tuyến.
U sợi-tuyến trong ống
Lòng ống bị ép, đẩy làm tuyến trở nên có hình dạng méo mó, tạo thành những khe không đều. Các tế bào thượng mô bị ép thành những dây dài trên nền mô đệm sợi. Các chỗ tăng sản sợi nhiều còn có thể lấn vào lòng các khoảng ống dẫn còn nguyên.
U tuyến sinh sữa
Thành phần sợi rất ít. Toàn bộ mô u là các ống tuyến và các tiểu thùy tăng sản, lót bởi một hay hai lớp tế bào và phân cách nhau bởi lớp mô sợi mỏng. Các tế bào rất đều đặn, nhưng vỏ bao u thường không hoàn toàn. Loại u này rất hiếm thấy và có trên mô vú đang sinh sữa.
Trong 3 loại trên đây thì hai loại quanh ống và loại trong ống thường xuất hiện chung trong cùng một u. Còn loại sinh sữa thì thường có một mình.
U sợi-tuyến khổng lồ
Trong một số trường hợp rất hiếm, u sợi-tuyến có thể phát triển to, đường kính có thể đến 10 đến 15 cm và trở thành có nhiều thùy. Khi đó, u được gọi là u sợi-tuyến khổng lồ và được xếp trong nhóm sarcom bọc-diệp thể. U to có thể làm biến dạng vú, gồ lên mặt da, gây hoại tử da trên u.
Sarcom bọc-diệp thể
Ngoài dạng đặc là u sợi-tuyến khổng lồ kể trên, u thường to, nhiều thùy, có bọc, làm biến dạng vú, có thể gây hoại tử và lở da trên u.
Tuy hình dạng đại thể và tên gọi như vậy nhưng không phải lúc nào u cũng có tính chất ác tính. Theo Norman Trèves, có 3 loại:
U diệp thể lành.
Sarcom bọc-diệp thể ác.
Và sarcom bọc-diệp thể có tính ác nghi ngờ (nhóm "nghi ngờ" này có đặc điểm là tính chất lâm sàng nghi ngờ ác tính).
Theo Robbins, chỉ có 2 loại lành và ác, loại lành thường gặp hơn loại ác tính.
Cấu trúc vi thể gồm mô đệm nhầy nhiều tế bào hơn trong u sợi-tuyến. Các đám tế bào limphô, các nơi hoá sụn, hoá xương có thể có trong mô đệm. Nhưng thay đổi xấu nhất trong u là có tăng sản tế bào mô đệm kèm theo tế bào dị dạng và nhiều hoạt động phân bào. Sự thoái hoá ác tính luôn luôn đi kèm theo sự phát triển nhanh chóng của thể tích u. Tổn thương ác tính có thể tái phát, thường là tái phát tại chỗ. Khoảng 15% trường hợp có thể cho di căn hạch nách và di căn xa. Dù vậy, hầu hết có thể được điều trị khỏi bằng phẫu thuật cắt bỏ. Nhiều tác giả lưu ý cần thận trọng trong chẩn đoán và điều trị vì có nhiều trường hợp, khối u rất hiền lành về mặt lâm sàng nhưng lại là loại ác tính. Nếu dùng tên gọi u bọc-diệp thể, cần phân biệt rõ là loại lành hay loại ác tính.
U nhú trong ống sữa
Đây là một loại u đơn độc, chỉ có một khối nhỏ nằm trong một ống dẫn hay một bọc, khác với tình trạng tăng sản nhú có nhiều ổ, được gọi là bệnh u nhú, là một thành phần của thay đổi sợi-bọc. Thường xảy ra nhất trong những ống dẫn sữa chính.
Có ở mọi tuổi, nhưng thường nhất từ 30 đến 50 tuổi.
Trên lâm sàng thường được phát hiện do:
(1) Tiết dịch vàng hoặc máu hoặc trắng đục ở núm vú,
(2) Một u nhỏ vài milimét ở vùng quầng vú,
(3) Một số hiếm trường hợp tụt đầu vú.
Do u thường nhỏ ít khi trên 1 cm nên khó xác định trên lâm sàng và giải phẫu bệnh học. U thường ở trong ống dẫn sữa chính gần núm vú. Mô u bở, có những nhú và nhánh nằm trong một ống hoặc một bọc dãn nở. U có thể có hoặc không có cuống.
Cấu trúc vi thể gồm nhiều nhú, mỗi nhú có một trục liên kết và được phủ bởi tế bào thượng mô trụ hay lập phương. Do có phân nhánh, các nhú có thể tạo nên hình ảnh những khoang tuyến giả hoặc những ổ tế bào. Trong các u lành thật sự, có 2 loại tế bào trong mỗi nhú: tế bào thượng mô và tế bào cơ-thượng mô. Có thể có chuyển sản dạng tế bào đỉnh tiết hoặc những đám nhỏ mô xơ hoặc thoái hoá hyalin.
Chẩn đoán phân biệt với carcinom dạng nhú trong ống có thể khó. Các tiêu chuẩn để chẩn đoán carcinom là:
Có nhiều tế bào bất thường.
Có một loại tế bào.
Có nhân chia bất thường.
Không có trục liên kết-mạch máu.
Có những dãy tế bào nối các lòng ống (tạo hình ảnh dạng sàng).
Không có thoái hoá hyalin và chuyển sản dạng đỉnh tiết.
Có xâm nhập mô đệm.
Có những trường hợp các tiêu chuẩn trên có đặc tính lưng chừng rất khó chẩn đoán. Cách xử trí tốt nhất, do đó, là cắt toàn bộ phần ống dẫn có u.
Không có mối liên hệ giữa u với ung thư vú. Haagensen phân biệt loại u nhú trong ống sữa đơn độc có một ổ với loại u nhú trong ống sữa có nhiều ổ. Loại u có nhiều ổ có khả năng phát triển thành ung thư, thường là những khối giới hạn không rõ nằm ở vùng ngoại biên của vú nhưng không phải là bệnh u nhú thấy trong thay đổi sợi-bọc. Về mô học, chúng có hình ảnh giống u nhú trong ống sữa đơn độc.
U tuyến của núm vú
Hiếm thấy. Có ở người già. Gần núm vú, có thể làm lở loét núm vú. Là dạng u lành tuyến mồ hôi dạng nhú. Các ống được viền bởi các nhú có trục liên kết, có hai lớp tế bào: thượng mô lập phương, và cơ-thượng mô dẹt.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh tụy tạng
Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.
Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày
Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.
Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh
Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.
Giải phẫu bệnh đại tràng
Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Giải phẫu bệnh ruột non
Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.
Giải phẫu bệnh viêm tử cung
Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh dương vật
U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.
Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman
Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.
Giải phẫu bệnh Carcinom vú
Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).
Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Giải phẫu bệnh viêm giang mai
Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.
Giải phẫu bệnh của gan
Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp
Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.
Giải phẫu bệnh viêm xương
Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Giải phẫu bệnh u phúc mạc
Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung
Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.
Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật
Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.