Giải phẫu bệnh của ruột thừa

2012-11-29 01:56 PM

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Ruột thừa ở người vẫn là một bộ phận bí ẩn vì người ta chưa biết rõ chức năng của nó. Có quan điểm cho rằng ruột thừa có chức năng miễn dịch tương tự với túi Fabricius của loài chim.

Ruột thừa có kích thước thay đổi, đường kính thường từ 0,5-1cm, dài khoảng 8cm. Gốc ruột thừa đổ vào manh tràng khoảng 3cm dưới góc hồi manh tràng, nơi 3 dãy cơ dọc hội tụ. Ruột thừa có mạc treo và rất di động nên có thể nằm ở nhiều vị trí. Bình thường ruột thừa nằm ở vị trí điểm giữa đường nối gai chậu trước trên đến rốn (điểm Mac Burney).

Vách ruột thừa rất dày, có cấu trúc 4 lớp như ruột già. Điểm đặc biệt là ruột thừa có rất nhiều mô limphô ở lớp niêm mạc và dưới niêm mạc. Ở người trẻ, mô limphô tạo thành một lớp liên tục với các nang limphô.

Mô limphô teo đét dần theo tuổi và biến mất ở người già (lúc đó, phần xa của ruột thừa cũng bị xơ hóa).

Viêm ruột thừa cấp tính

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Nửa thế kỷ trước, Wangenstean và cộng sự đã chứng minh rằng nghẹt ruột thừa đưa đến viêm. Ruột thừa có thể bị nghẹt vì cục phân cứng, u, sỏi, một búi ký sinh trùng (giun kim). Hiếm khi ruột thừa bị nghẽn do dây dính bên ngoài, do tăng sản mô limphô trong lòng ruột (đi kèm với bệnh nhiễm virus toàn thân).

Khi ruột thừa bị nghẹt, kèm theo dịch nhầy được tiết ra, áp suất trong lòng khúc ruột bị nghẽn tăng lên, làm xẹp các tĩnh mạch. Sau đó là tình trạng thiếu máu tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập gây nên phản ứng viêm với phù và tiết dịch. Tình trạng thiếu máu và xâm nhập vi khuẩn tạo thành một vòng lẩn quẩn khiến cho viêm ngày càng nhiều thêm.

Tuy nhiên, cũng có một số rất ít trường hợp ruột thừa không bị nghẽn mà vẫn bị viêm cấp, những trường hợp này người ta không biết nguyên nhân.

Lúc đầu, chỉ có ít dịch xuất chứa bạch cầu đa nhân trung tính ở niêm mạc, dưới niêm mạc (đôi khi có tổn thương niêm mạc) và có kèm sung huyết và thấm nhập bạch cầu ở dưới thanh mạc.        

Lúc ấy, thanh mạc trơn, bóng, chắc và lốm đốm có hạt (viêm ruột thừa cấp tính giai đoạn sớm).

Trễ hơn, bạch cầu đa nhân trung tính thấm nhập nhiều hơn các lớp của thành ruột nhất là ở lớp cơ. Lớp thanh mạc được phủ bởi lớp mủ fibrin. Sau đó, có các ổ áp xe ở vách kèm theo loét và hoại tử có mủ ở niêm mạc (viêm ruột thừa cấp tính có mủ).

Nếu diễn tiến xấu hơn, có loét xuất huyết niêm mạc, hoại tử và hoại thư ở vách ra đến thanh mạc, có thể gây vỡ ruột thừa (viêm ruột thừa cấp hoại tử), gây viêm phúc mạc, hoặc áp xe ruột thừa.

Một số rất hiếm trường hợp có thể gây biến chứng viêm tĩnh mạch có mủ, áp xe gan.

Diễn tiến của bệnh viêm ruột thừa cấp rất hiếm khi có thể tự phục hồi và hóa sẹo nếu tổn thương ít. Đôi khi chuyển sang viêm mạn tính kèm theo có lỗ dò.

Ruột thừa cũng có thể bị ảnh hưởng do các bệnh khác như bệnh Crohn, sốt thương hàn, viêm ruột do amip.

Viêm ruột thừa mạn tính

Rất hiếm gặp, thường nhất là những cơn cấp tính tái đi tái lại nhiều lần khiến người ta nghĩ đến viêm ruột thừa mạn tính.

Trên một số bệnh nhân, ruột thừa chỉ là một sợi dây bằng mô sợi từ lúc mới sinh và được coi là hậu quả của phản ứng viêm mạn tính.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.