Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

2012-11-28 07:55 PM

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Carcinom

Dịch tễ học

Theo Silverberg. E, năm 1980, ung thư dạ dày không còn là nguyên nhân gây tử vong nhiều tại Hoa kỳ nữa. Tử suất do ung thư dạ dày đã giảm thấp tại nhiều nước khác như Phần Lan, Úc, các nước phương Tây. Tại Hoa kỳ, năm 1930, tần suất của ung thư dạ dày là 33 trên 100000 dân, nhưng hiện nay chỉ có 7-8 trên 100000. Lý do thì chưa rõ nhưng có lẽ do sự thay đổi của môi trường sống. Tuy nhiên, tại Nhật, phân nửa số bệnh nhân chết vì ung thư là do ung thư dạ dày, nhất là ở đàn ông.

Ngay cả những người di dân thế hệ đầu tiên đi từ những vùng có nguy cơ mắc bệnh cao đến sinh sống ở những vùng có nguy cơ mắc bệnh thấp cũng dễ bị ung thư dạ dày dù họ di cư ngay từ lúc nhỏ. Điều này chứng tỏ là các tác nhân gây bệnh đã ảnh hưởng ngay từ thời thơ ấu. Các thế hệ sau của những người di dân này thì lại có cùng xuất độ bệnh và tử suất như là dân bản địa.

Ở những vùng có nguy cơ mắc bệnh thấp, tuổi có xuất độ bệnh cao là từ 50-60 tuổi, chỉ có 5% bệnh nhân ở tuổi dưới 40.

Ở những vùng có nguy cơ mắc bệnh cao thì nhóm có xuất độ bệnh cao trẻ hơn. Dù ở vùng nào, nam giới cũng mắc bệnh nhiều hơn nữ giới, tỉ lệ là 1,5/1 đến 2/1.

Nguyên nhân và sinh bệnh học

Các yếu tố di truyền: Ít có ảnh hưởng, chỉ có 4% bệnh nhân có tiền căn gia đình có carcinom dạ dày. Ngườiã có nhóm máu A có xuất độ bệnh hơi cao hơn người có nhóm máu khác.

Ảnh hưởng của môi trường: Giữ vai trò quan trọng. Những yếu tố môi trường gồm: chế độ ăn uống, mức sống xã hội thấp, cư dân thành thị, tiếp xúc với tia phóng xạ, những kim loại vết trong đất, nghề nghiệp.

Chế độ ăn uống có vai trò chủ yếu vì nhờ đó người ta giải thích được các khác biệt về dịch tễ học dù chưa xác định được loại thực phẩm đặc hiệu gây bệnh. Một số thực phẩm đã được kể tới là gạo ở Nhật, thức ăn khô ở Wales, thực phẩm từ hạt ở Phần lan, đồ gia vị ở Java. Ăn nhiều hoa quả có nhiều sinh tố C có tác dụng ngừa bệnh. Ngược lại, nitrosamines và nitrosamides được nghi ngờ là chất sinh ung. Các nitrites được thêm vào như là chất bảo quản các thực phẩm như thịt hun khói, các nước chấm, xúc xích. Ở các xứ mà tủ lạnh được sử dụng rộng rãi để bảo quản thức ăn, xuất độ bị bệnh thấp vì người ta không dùng các chất bảo quản có nitrites và vì nhiệt độ tủ lạnh ức chế sự khử nitrates thành nitrites trong thức ăn dự trữ. Phản ứng khử này cũng bị ức chế bởi sinh tố C.

Các tổn thương ở dạ dày: Gồm chuyển sản ruột của biểu mô dạ dày trong viêm dạ dày teo đét, và u tuyến của dạ dày. Các u này nhất là loại chuyển sản ruột và nghịch sản, là những tổn thương tiền ung thư, được coi như là nơi tạo điều kiện cho sự phát triển của carcinom.

Hình thái giải phẫu bệnh

Vị trí tổn thương:

Môn vị và hang vị 50-60%, tâm vị 10%, cả dạ dày 10%, các chỗ còn lại là 20-30%. Bờ cong nhỏ 40%, bờ cong lớn 12%, hết cả chu vi 25%, thành trước hoặc thành sau khoảng 25%. Vì vậy, thường gặp nhất là phần bờ cong nhỏ của môn vị-hang vị. Các tổn thương dạng loét ở vị trí này thường khó chẩn đoán lành hay ác, kể cả trên phim X quang lẫn quan sát trực tiếp, vì đây cũng là vị trí thường gặp của bệnh loét dạ dày. Ngược lại, ở phần bờ cong lớn của môn vị-hang vị thường là ung thư.

Kích thước:

Carcinom lúc bị phát hiện có thể nhỏ (khoảng 10% có đường kính nhỏ hơn 2 cm) hoặc rất lớn chiếm gần trọn dạ dày (khoảng 80% có từ 2 đến 10 cm).

Hinh dạng: Có 5 dạng

Carcinom dạ dày giai đoạn sớm: 10 đến 35% trường hợp. Xuất độ này tùy thuộc vào các cố gắng và phương tiện chẩn đoán sớm. Có khi người ta dùng thuật ngữ carcinom nông. Đó là tổn thương phẳng, cứng và dày của niêm mạc (có thể sờ và nhìn thấy được) hoặc có dạng pôlíp, hoặc bị loét. Có khi là những vùng rộng do tổn thương nhiều ổ. Tổn thương khu trú ở lớp dưới niêm mạc và lớp dưới niêm, không đến lớp cơ, nhưng được coi là carcinom tại chỗ vì có khoảng 5% trường hợp có thể có di căn đến hạch vùng.

Dạng khối sùi với loét ở giữa, không có ranh giới rõ. Nếp gấp niêm mạc nơi có u bị mất hoàn toàn.

Carcinom dạng nấm: khoảng 30% trường hợp. Tổn thương có dạng những khối to, sùi trong lòng dạ dày, xâm nhập sâu và lan ra bên cạnh. Ở giữa tổn thương thường có loét.

Carcinom xâm nhập và loét: khoảng 30% trường hợp. Khó phân biệt với bệnh loét dạ dày mạn tính. Tổn thương điển hình có dạng loét rộng có đường kính 2-8 cm, có bờ không đều và gồ cao, làm tổn thương giống miệng núi lửa. Đáy tổn thương bị hoại tử. Mô dạ dày cạnh thường bị xâm nhập và dày lên và mất nếp gấp niêm mạc.

Tổn thương dạng bông cải có thể có đường kính 6-8cm. U thường xâm nhập mô sâu nhưng mô bên cạnh thì không rõ ràng. Đôi khi, u chế tiết nhầy, có dạng và mật độ như gelatin, vì vậy có tên gọi là carcinom nhầy (colloid carcinoma) và có thể xuất nguồn từ một u tuyến có trước đó.

Carcinom xâm nhập lan tỏa: khoảng 10% trường hợp. Tổn thương lan rộng, đôi khi lan hết vách, không tạo thành khối trong lòng dạ dày. Vách dạ dày, chỗ bị xâm nhập, dày từ 2-3cm, có mật độ cứng như da. Các nếp gấp niêm mạc bị mất hẳn. Trên diện cắt tổn thương, ở hầu hết các vách của dạ dày, có màu trắng xám, rõ nhất là ở dưới niêm mạc và ở dưới thanh mạc. Mô tổn thương có một phần là chủ mô, một phần là phản ứng xơ hoá mạnh. Theo mô tả kinh điển, dạ dày có dạng "cái chai bằng da" "linitis plastica".

Sự phân loại theo 5 dạng trên không có ý nghĩa sinh học. Mới đây, một cách phân loại sinh học chia ung thư dạ dày làm 2 dạng: carcinom dạng lan rộng và carcinom dạng xâm nhập. Dạng lan rộng có dạng khối dính ăn lan theo bề mặt ra bên cạnh, có bờ dễ được xác định giúp các phẫu thuật viên dễ định được mức độ cắt dạ dày. Dạng xâm nhập có các tế bào u xâm nhập, không có bờ rõ ràng và tổn thương lan tỏa hơn.

Bảng: Xuất độ các loại tổn thương. Đối chiếu cách phân loại theo hình dạng với cách phân loại sinh học.

Dạng
đại thể

Dạng
đại thể

Carcinom
dạng xâm nhập

Dạng pôlíp

Dạng pôlíp

0%

Nông

Nông

0%

Loét

Loét

43%

Dạng nấm

Dạng nấm

4%

Lan tỏa

Lan tỏa

91%

Vi thể:

Tất cả carcinom dạ dày đều gồm 2 loại tế bào: tế bào chuyển sản ruột và tế bào chế tiết nhầy dạ dày. Đôi khi có cả 2 loại.

Tế bào chuyển sản ruột có những không bào to chứa chất nhầy ở đỉnh (chất nhầy acid hoặc trung tính). Trên bề mặt phía lòng dạ dày của một số tế bào có thể có các vi nhung mao. Các tế bào này chứa alkaline phosphatase, amino peptidase và -glucuronidase, là loại enzym không có trong tế bào chế tiết nhầy bình thường của dạ dày.

Tế bào chế tiết nhầy dạ dày có trên bề mặt và trong các chỗ sâu của nếp gấp niêm mạc. Chất mucin dưới dạng những giọt nhỏ nằm trong phân nửa đỉnh của tế bào.

Trong các carcinom biệt hoá rõ, cả 2 loại tế bào đều có dạng dễ phân biệt. Trong các carcinom kém biệt hoá hoặc thoái sản, không còn thấy đặc tính chế tiết nhầy hoặc hình dáng đặc thù của các tế bào này nữa.

Cả hai loại tế bào đều có thể hợp thành cấu trúc tuyến rõ ràng (carcinom tuyến), có khi có tạo nhú (carcinom tuyến dạng nhú). Trong các carcinom ít biệt hoá hơn, các tế bào u họp thành những đám dị dạng, những nhóm nhỏ hoặc nằm riêng lẻ. Lượng mucin được chế tiết ra thay đổi, không tùy thuộc loại tế bào u. Nhiều không bào mucin có thể làm căng tế bào, có thể hợẩp lại và đẩy ép dẹp nhân ra sát màng tế bào làm cho tế bào có hình nhẫn (carcinom tế bào hình nhẫn). Có khi chất mucin nằm trong lòng các tuyến ung thư. Có khi tế bào u chế tiết nhiều, tạo nên hình ảnh các tế bào và các tuyến ung thư nằm trôi nổi trong một hồ mucin. Trong các ung thư xâm nhập lan tỏa, các tế bào u nằm trên mô đệm sợi. Mô đệm này làm dày vách dạ dày, có khi rất nhiều làm cho khó tìm thấy tế bào u.

Ung thư dạ dày cũng có thể được chia làm hai loại, loại "tế bào ruột" và loại "xâm nhập dạ dày", tùy theo loại tế bào chiếm ưu thế trong u. Loại "tế bào ruột" thường có trong carcinom dạng lan rộng đi kèm với viêm dạ dày mạn tính, là hậu quả của chuyển sản ruột trong bệnh này, có liên quan gần đến các ảnh hưởng của môi trường, có tiên lượng tốt hơn loại "xâm nhập dạ dày", là loại chiếm ưu thế tại các xứ có nguy cơ cao của carcinom dạ dày. Tuy vậy, cũng không có tương quan hoàn toàn giữa cách phân loại mô học này với độ lan rộng và độ xâm nhập bởi vì có những ung thư có cả hai loại tế bào mà lại có nhiều ổ tổn thương.

Một loại carcinom dạ dày khác được gọi là carcinom không biệt hoá. Tế bào u, nhân tròn hay bầu dục và rất tăng sắc. Bào tương có những hạt chế tiết nhầy thấy rõ trên kính hiển vi điện tử và có phản ứng bạc dương tính. Các u này xuất nguồn từ các tế bào nội tiết của ống tiêu hoá, có thể sản xuất ra các nội tiết tố, polypeptide hoặc một loại amine (ví dụ như histamine-5 hydroxytryptamine, ACTH) nên được xếp trong nhóm u của hệ nội tiết lan tỏa.

Lan rộng và di căn:

Carcinom dạ dày có thể xâm nhập, cho các hạt màu trắng xám dưới thanh mạc, ăn lan hết dạ dày, đến tá tràng (ở tá tràng, carcinom dạ dày thường chỉ ăn lan đến phần dưới thanh mạc mà không gây tổn thương đến niêm mạc).

Di căn đến hạch vùng có trong 80% đến 90% trường hợp. Di căn buồng trứng (u Krukenberg của buồng trứng) có trong 10% trường hợp (sẽ đề cập trong phần u buồng trứng).

Biểu hiện lâm sàng:

Thường không có triệu chứng cho đến khi đã diễn tiến nhiều.

Các triệu chứng lâm sàng của bệnh đã tiến triển gồm:

Sụt cân: 80%.

Đau bụng: 72%.

Ăn không ngon: 57%.

Ói mửa: 44%.

Thay đổi các thói quen của ruột: 35%.

Nuốt khó: 14%.

Thiếu máu: 12%.

Xuất huyết: 10%.

Các triệu chứng này đều không đặc hiệu cho bệnh. Phân nửa các trường hợp không có hoặc có ít acid chlorhydric trong hang vị.

Có khi, bệnh được phát hiện qua các ổ di căn: di căn gan (trong 10% trường hợp), di căn hạch limphô, kể cả hạch Virchow, di căn buồng trứng, di căn phúc mạc (với những ổ di căn nhỏ ở túi cùng, sờ được khi thăm khám trực tràng bằng ngón tay, được gọi là các hạt cát ở trực tràng (rectal shelf).

Do thường được phát hiện chậm, tiên lượng bệnh thường xấu.

Các u tế bào nội tiết

Gồm u tế bào ưa bạc và carcinoid. Cũng giống như ở ruột, u có thể xâm nhập, di căn trong 1/3 trường hợp (xem trong phần u của ruột).

Các limphom dạ dày-ruột

Limphom dạ dày-ruột có thể là một biểu hiện của limphom toàn thân, cũng có thể là limphom nguyên phát xuất nguồn từ mô limphô có sẵn trong ống tiêu hoá. Dù là loại nào, đặc tính về hình thái cũng như nhau.

Hầu hết có vị trí ở dạ dày và ruột non. Cũng có ở hồi tràng, đại tràng, ruột thừa. Ở dạ dày, limphom nguyên phát chiếm tỉ lệ 3 đến 5% các ung thư dạ dày.

Loại limphom nguyên phát của dạ dày-ruột thường chỉ có ở một vị trí hay ít nhất ở một vùng của ống tiêu hoá. Loại limphom còn lại thì có nhiều ở hạch mạc treo, hạch sau phúc mạc, hoặc ở ngoài ổ bụng.

Đại thể:

Trong phần lớn trường hợp, tổn thương chỉ có ở một đoạn của ống tiêu hoá, dạng xâm nhiễm có bờạ gồ cao, kèm loét niêm mạc phủ. Cũng thường thấy là tổn thương dạng pôlíp với những khối nhiều thùy nhô vào lòng ống, đôi khi có loét bề mặt. Đôi khi, đặc biệt là ở dạ dày, tổn thương xâm nhập rộng tạo thành dạng các nếp gấp khổng lồ, dễ nhầm lẫn với bệnh viêm dạ dày phì đại.

Dù là dạng nào, tổn thương cũng mềm hơn, xám hơn, dai hơn các carcinom. Có thể có hoại tử ở vùng trung tâm tổn thương gây thủng. Trong phân nửa các trường hợp, tổn thương chỉ có ở ống tiêu hoá. Một phần ba các trường hợp có thêm các tổn thương ở hạch vùng. Số còn lại có tổn thương lan tỏa ở các hạch ổ bụng, các tạng và các vị trí ngoài bụng.

Vi thể:

Giống như limphom ở hạch (xem bài bệnh của hạch limphô). Theo cách phân loại của Rappaport, thì limphom mô bào lan tỏa chiếm 60% trường hợp. Kế đến là limphom limphô bào dạng lan tỏa hoặc dạng nang biệt hoá rõ hoặc biệt hoá kém. Rất hiếm thấy bệnh Hodgkin nguyên phát ở ống tiêu hoá. Dù là loại nào, 20 đến 40% các limphom ở ruột non đều có sự hiện diện của tương bào trên mô nền của các tế bào khác. Khi đó, nhiều tác giả gọi là u tương bào, hoặc limphom limphô bào dạng tương bào, hoặc limphom loại Địa Trung Hải (Mediterranean type lymphoma, vì được mô tả ở Israel).

Biểu hiện lâm sàng:

Người lớn, ở cả hai giới nam và nữ có xuất độ cao hơn trẻ em. Tổn thương nguyên phát ở dạ dày thường gây chú ý do các triệu chứng giống như bệnh loét dạ dày. Tổn thương ở ruột non thì gây triệu chứng của tắc ruột, đau, xuất huyết, hiếm khi có thủng ruột. Khi tổn thương lan rộng, bệnh nhân có hội chứng kém hấp thu chất dinh dưỡng.

Bệnh có tiên lượng, nói chung, tốt hơn carcinom. Nhiều trường hợp có thể điều trị được bằng phẫu thuật cắt bỏ. Các trường hợp không thể cắt được, dùng xạ và/hoặc hoá trị. 35% trường hợp có thời gian sống thêm 5 năm. Tiên lượng tùy thuộc chủ yếu vào mức độ lan rộng của bệnh và không tùy thuộc vào loại mô học. Một số khảo sát cho thấy bệnh có thể đi kèm với viêm loét đại tràng, bệnh Crohn, carcinom.

Cần lưu ý, bệnh viêm dạ dày mạn tính có thể có thấm nhập nhiều tế bào viêm trong vách dạ dày, nên cho hình ảnh đại thể và vi thể giống limphôm. Các tổn thương như thế được mô tả là giả limphom, được phân biệt với limphom nhờ vào các đặc điểm như sau: tổn thương viêm thì có ở trung tâm mầm, có nhiều loại tế bào khác nhau (tương bào, bạch cầu đa nhân, mô bào, limphô bào, nguyên bào sợi), có bờ hoá sợi.

Sarcom

Hiếm gặp, gồm sarcom cơ trơn, sarcom sợi, sarcom tế bào nội mô mạch máu, có hình thái mô học giống ở các nơi khác. Chỉ riêng sarcom cơ trơn thì cần được lưu ý để phân biệt với u nguyên bào cơ trơn. Cả hai có dạng đại thể giống nhau dưới dạng những khối to, giới hạn rõ trong vách và lồi vào lòng dạ dày. U nguyên bào cơ trơn có độ ác trung gian giữa u lành cơ trơn và sarcom cơ trơn. U gồm các tế bào to, đa dạng, nhân ở giữa tế bào, có bào tương nhiều, sáng, hoặc ưa eosin, đôi khi có quầng sáng quanh nhân. Có thể có ít hay nhiều phân bào. Khi có trên 5 phân bào trong quang trường phóng đại 10 lần thì u ác tính và có khả năng di căn. Theo một số khảo sát thì u cho di căn trong 5 đến 30% trường hợp.

Ung thư do di căn

Rất hiếm gặp. Các ung thư cho di căn đến dạ dày có thể là carcinom của bất kỳ nơi nào, đặc biệt là carcinom của vú và mêlanôm ác. Nhưng loại ung thư thường cho di căn dạ dày nhất là limphom và bệnh bạch cầu. Hầu hết tổn thương đều có nhiều ổ, đều ảnh hưởng đến lớp cơ và dưới niêm mạc trước rồi mới ăn lan ra niêm mạc. Có thể có hoại tử trung tâm.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.