Sốt hồi quy
Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Sốt hồi quy là bệnh lưu hành ở nhiều vùng trên thế giới. Loài gặm nhấm, ổ bệnh chính, là nguồn lây nhiễm cho ve và bọ (ví dụ Ornithodoros). Phân bố và tỷ lệ mới mắc bệnh phụ thuộc sinh thái học của ve bọ ở từng vùng. Ở Hoa Kỳ, ve và bọ được tìm thấy nhiều ở miền Tây, nhất là ở các vùng múi, nhưng các trường hợp bệnh ở người hiếm gặp.
Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự. Xoắn khuẩn có thể lây truyền qua trứng từ thế hệ này của ve bọ sang thế hệ khác. Xoắn khuẩn có mặt trong tất cả các mô của ve bọ và con người có thể bị nhiễm bệnh do ve bọ đốt hoặc qua việc chà xát các mô giập nát hoặc phân ve bọ vào vết cắn. Sốt hồi quy do ve bọ truyền là bệnh lưu hành địa phương nhưng không lây truyền từ người sang người. Borrelia ở các vùng khác nhau của thế giới có tên loài (hoặc dòng) khác nhau, phụ thuộc vào loại ve bọ truyền bệnh.
Khi một người nhiễm bệnh có rận kỷ sinh, những con rận sẽ bị nhiễm xoắn khuẩn qua hút máu. Sau vài ngày chúng trở thành riguồn lây bệnh cho người khác. Những vụ dịch lớn có thể xẩy ra ở những quần thể có rận ký sinh và những nhân tố thuận lợi cho sự lây truyền là ở chật, suy dinh dương và khí hậu lạnh.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Bệnh khởi phát đột ngột với sốt, rét run, nhịp tim nhanh, buồn nôn và nôn, đau khớp và đau đầu dữ dội. Gan to và lách to có thể xuất hiện, cũng như một loạt các ban. Bệnh nhân mê sảng khi sốt cao và nhiều triệu chứng thần kinh - tâm thần có thể xuất hiện. Đợt bệnh thường kết thúc sau 3 - 10 ngày. Sau khoảng 1 - 2 tuần, bệnh tái phát nhưng thường ít trầm trọng hơn. Ba đến mười đợt tái phát có thể xuất hiện trước khi bệnh khỏi hoàn toàn.
Các xét nghiệm cận lâm sàng
Trong các đợt sốt, các xoắn khuẩn kích thước lớn có thể thấy trong các lam máu nhuộm theo phương pháp Wright hoặc Giemsa. Xoắn khuẩn có thể mọc trong các môi trường nuôi cấy đặc biệt nhưng nhanh chóng mất tính gây bệnh. Các xoắn khuẩn có thể nhân lên khi được tiêm truyền cho chuột và có thể nhìn thấy trong máu của chúng.
Một loạt các kháng thể kháng borrelia xuất hiện trong thời gian bị bệnh; đôi khi phản ứng Weil - Felix trong nhiễm Rickettsia và các xét nghiệm huyết thanh không xuắn khuẩn cho giang mai cũng có thể dương tính giả. Biến loạn dịch não tủy xuất hiện ở những bệnh nhân có xâm nhiêm màng não. Thiếu máu nhẹ và hạ tiểu cầu thường gặp, nhưng số lượng bạch cầu tỏ ra bình thường.
Chẩn đoán phân biệt
Các biểu hiện của sốt hồi quy có thể bị nhầm lẫn với sốt rét, nhiễm leptospira, nhiễm khuẩn huyết não mô cầu, sốt vàng, nhiễm Rickettsia, hoặc sốt chuột cắn.
Phòng bệnh
Phòng ve bọ đốt (như trong phần nhiễm Rickettsia) và các biện pháp diệt rận áp dụng cho nhiều người có thể ngăn ngừa bệnh. Các côn trùng trung gian truyền bệnh cần được kiểm soát nếu có thể.
Hiện chưa có biện pháp phòng bệnh hiệu quả bằng kháng sinh.
Điều trị
Liều duy nhất tetracylin hoặc erythromycin, 0,5g uống, hoặc một liều duy nhất procain penicillin G, 400.000 đến 600.000 đom vị tiêm bắp, có lẽ là liệu pháp thích hợp cho sốt hồi quy do chấy rận. Do có tỷ lệ tái phát cao hơn, bệnh do ve bọ truyền cần được điều trị bằng 0,5g tetracyclin hoặc erythromycin bốn lần một ngày trong 5 - 10 ngày. Phản ứng Jaisch - Herxheimer thường xuất hiện sau điều trị và có thể đe doạ tính mạng. Điều trị aspirin - mà không phải hydrocortison - có thể giảm nhẹ phản ứng này. Phản ứng Jarisch - Herxheimer xảy ra phần nào qua trung gian của yếu tố hoại tử u, và điều trị kháng thể với cytokin trước điều trị kháng sinh có tác dụng ngăn ngừa phản ứng.
Tiên lượng
Tỷ lệ tử vong nói chung thường khoảng 5%. Các trường hợp tử vong thường gặp ở người cao tuổi, người suy kiệt, và những bệnh nhân nhỏ tuổi. Cùng với điều trị, đợt sốt ban đầu được rút ngắn, và các đợt tái phát phần lớn được ngăn chặn.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm màng não do não mô cầu
Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.
Bệnh do Nocardia
Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.
Bệnh do Leptospira
Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.
Sốt do ve
Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.
Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella
Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.
Nhiễm Adenovirus
Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu
Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.
Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao
Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.
Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A
Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.
Sốt phát ban do mò truyền
Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.
Bệnh tả
Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.
Bệnh do vi khuẩn Listeria
Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.
Bệnh than
Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.
Rubeon: bệnh sởi Đức
Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.
Nhiễm virus coxsackie
Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.
Viêm dạ dày ruột do Salmonella
Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.
Viêm phổi do phế cầu
Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.
Thương hàn
Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.
Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis
Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí
Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.
Bệnh bại liệt
Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.
