Bệnh tả
Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Tiêu chảy dữ dội.
Phân nhiều nước, màu xám đục, không có mùi phân, máu hay mủ (phân như nước gạo).
Mất nước nhanh chóng.
Có tiếp xúc với người bệnh hoặc đến vùng có dịch tả.
Phản ứng ngưng kết và cấy phân phân lập được phẩy khuẩn tả.
Nhận định chung
Tả là bệnh tiêu chảy cấp do một số typ huyết thanh nhất định của phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra. Bệnh thông qua cơ chế độc tố, thường không sốt. Độc tố tả kích hoạt men adenylyl cyclase trong tế bào biểu mô ruột non làm tiết quá mức, nước và ion clo, gây tiêu chảy dữ dội, có thể đến 1,5 lít mỗi ngày. Tử vong là do giảm thể tích máu nặng.
Bệnh tả xuất hiện thành dịch trong điều kiện như chiến tranh, đông đúc, nạn đói (trong các trại ty nạn) điều kiện vệ sinh tồi. Nhiễm bệnh do ăn uống phải thức ăn hoặc nước bị nhiễm vi khuẩn. ở Hoa Kỳ ít gặp tả, trừ vụ dịch năm 1991 mà nguồn gốc là từ Peru, qua các nước Nam và Trung Mỹ, Mexico và một số trường hợp lan sang Hoa Kỳ. Cần cảnh giác bệnh tả ở những người tiêu chảy nặng, nhất là họ có đi qua vùng dịch.
Biểu hiện lâm sàng
Tiêu chảy nặng, đột ngột, phân toàn nước (có thể đến 1 lít một giờ), màu đục xám, không mùi, không máu mũi (giống nước gạo). Kiệt nước và tụt huyết áp xuất hiện nhanh chóng.
Biểu hiện cận lâm sàng
Cấy phân có vi khuẩn mọc và phản ứng ngưng kết với nhiều huyết thanh đặc hiệu.
Phòng bệnh
Đã có vaccin có thể bảo vệ trong một thời gian ngắn cho người cần đi vào hoặc vừa từ vùng dịch ra. Cần dùng 2 liều cách nhau từ 1 - 4 tuần và nhắc lại 1 liều, 6 tháng một lần nếu cần (vẫn phải ở lại vùng đang có dịch). Tiêm chủng toàn dân vừa tôn kém, vừa ít hiệu quả ngăn ngừa dịch tả. Khi xuất hiện dịch cần tập trung giải quyết khâu vệ sinh thức ăn, nguồn nước uống của nhân dân và các chất thải của bệnh nhân.
Điều trị
Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch bằng cách cho một thìa cà phê muối với 4 thìa canh đầy đường vào một lít nước sôi để nguội. Chỉ cần truyền dịch khi bệnh nhân có dấu hiệu sốt do giảm thể tích hoặc không uống được dịch. Ringer lactat hoặc dịch truyền chứa 4g (70mEq) NaCl; 1g (10mEq) KClj 5,4g (50 mmol) lactat natri và 8g (45mmol) đường trong 1 lít nước dịch là được.
Kháng sinh giúp làm rút ngắn diễn biến bệnh. Nhiều kháng sinh có tác dụng với phẩy khuân tả như tetracyclin, ampicillin, chloramphenicol, cotrimoxazol, fluoroquinolon. Vì vi khuẩn có thể kháng nhiều kháng sinh, nên nếu được thì cần làm kháng sinh đồ.
Bài viết cùng chuyên mục
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Viêm họng nhiễm khuẩn do liên cầu
Liên cầu tan huyết bê ta nhóm A là vi khuẩn gây viêm họng xuất tiết phổ biến nhất. Bệnh lây qua các giọt nước bọt có vi khuẩn.
Rubeon: bệnh sởi Đức
Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.
Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên
V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.
Nhiễm Adenovirus
Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.
Vãng khuẩn huyết do Salmonella
Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.
Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân
Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.
Bệnh do rickettsia
Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.
Ngộ độc Clostridium botulinum
Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.
Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao
Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.
Virus và viêm dạ dày ruột
Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.
Bệnh do Ehrlichiae
Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.
Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
U hạt vùng bẹn
Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.
Vết thương do người và xúc vật cắn
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm
Viêm màng não do lao
Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.
Bệnh do Brucella
Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.
Bệnh sởi
Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.
Sốt phát ban thành dịch do bọ chét
Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.
Bệnh dịch hạch
Khởi bệnh đột ngột sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng.
Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai
Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.
Sốt đốm xuất huyết vùng núi Rocky
Tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, hạ natri máu, protein niệu, hồng cầu niệu là hay gặp. Dịch não tủy có thể có glucose giảm, tăng nhẹ bạch cầu lympho.
Ỉa chảy ở người du lịch
Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.
Sốt vàng
Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.
