Bệnh dịch hạch

2016-04-08 10:36 AM

Khởi bệnh đột ngột sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Có tiếp xúc với loài gặm nhấm trong vùng dịch tễ.

Sốt cao, mệt nặng, đau cơ, phờ phạc xuất hiện đột ngột.

Viêm hạch bẹn hoặc hạch lách (thể hạch).

Vãng khuẩn huyết, nhiễm khuẩn huyết hoặc viêm phổi.

Nhuộm tiêu bản thấy vi khuẩn. Cấy máu hoặc hạch sưng sẽ cho kết quả dương tính.

Nhận định chung

Dịch hạch là bệnh của các loài gặm nhấm hoang dã do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra. Đây là một loại trực khuẩn gram (-) hình que bắt màu 2 đầu. Bệnh thành dịch ở California, Arizona, Nevada, New Mexico. Bệnh lây sang thú khác hoặc sang người do bị bọ chét đốt hoặc tiếp xúc với thú bị bệnh. Nếu bị thể phổi, bệnh có thể lây lan qua các giọt dịch tiết đường hô hấp. Thời gian ủ bệnh từ 2 - 10 ngày.

Sau khi từ bọ chét vào cơ thể, vi khuẩn sẽ theo đường bạch huyết đến hạch bạch huyết làm hạch sưng to, rồi có thể theo dòng máu để đến các cơ quan khác. Viêm phổi và viêm màng não thường gây tử vong.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Khởi bệnh đột ngột: sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng. Trong thể phổi, bệnh nhân thở nhanh, ho nhiều đờm lẫn máu và tím tái. Có thể thấy dấu hiệu màng não. Có thể tìm thấy sẩn hoặc vết loét nơi đường vào và dấu hiệu viêm bạch mạch. Các hạch cổ, nách, bẹn sưng to, đau và có thể mưng mủ rồi rò ra ngoài. Khi nhiễm khuẩn qua đường máu, bệnh nhân sẽ nhanh chóng bị nhiễm độc và hôn mê, có nốt xuất huyết trên da (dịch hạch đen). Thể có viêm phổi tiên phát chớp nhoáng thường có kèm nhiễm khuẩn máu, đờm lẫn máu và bọt hồng.

Biểu hiện cận lâm sàng

Nhuộm gram dịch hút từ các hạch sưng có thể soi thấy trực khuẩn dịch hạch. Cấy dịch hút hạch hoặc máu cũng thấy mọc, nhưng chậm. Trong giai đoạn lui bệnh, phản ứng ngưng kết huyết thanh sẽ dương tính.

Chẩn đoán phân biệt

Thể viêm hạch hay bị nhầm với viêm hạch do tụ cầu hay liên cầu do nhiễm khuẩn đầu chi. Với các bệnh lây truyền theo đường tình dục như u hạt lympho, giang mai, hoặc với bệnh do tularemia. Thể toàn thân dễ nhầm với sốt ruột hay sốt do rickettsia, sốt rất nặng hoặc cúm. Thể phổi và thể màng não dễ nhầm với viêm phổi hay viêm màng não do vi khuẩn.

Phòng bệnh

Có thể dùng thuốc phòng bệnh tạm thời cho người tiếp xúc, nhất là vợi thể phổi. Tetracyclin 500mg, ngày 1- 2 lần, trong 5 ngày là thuốc hay dùng nhất.

Vaccin chống dịch hạch (cả loại vi khuẩn sống và chết) đã được sử dụng từ lâu nhưng hiệu quả chưa được xác định rõ.

Điều trị

Cần điều trị ngay khi có nghi ngờ dịch hạch. Tiêm bắp ngay streptomycin 1g và sau đó cứ 6 - 8giờ lại tiêm 0,5g, đồng thời uống (hoặc tiêm nếu cần), 2g/ngày tetracyclin. Các biện pháp hồi sức cần thiết trong thể nặng như truyền dịch, thuốc vận mạch. Thở oxy, thở máy cần được áp dụng để cứu sống bệnh nhân, cần cách ly nghiêm ngặt đối với bệnh nhân thể phổi.

Bài viết cùng chuyên mục

Hội chứng Kawasaki

Biến chứng chính là viêm động mạch vành, xảy ra ở 20% số trường hợp không điều trị. Những yếu tố liên quan tới phát triển phình động mạch vành là tăng bạch cầu, tăng protein phản ứng C.

Quai bị

Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Sốt Q

Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.

Bệnh đậu do rickettsia

Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.

Virus hợp bào đường hô hấp

Virus này gây bệnh nặng nhất vào lúc mà kháng thể đặc hiệu của người mẹ hằng định mặc dù nồng độ kháng thể cao có thể làm thay đổi hoặc phòng được bệnh.

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Bệnh lỵ trực trùng

Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện tiêu chảy, đau bụng dưới và đi ngoầi đau quặn, mót rặn. Phân có nước, thường có lẫn máu và nhầy.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Nhiễm virus herpes typ 6, 7, 8 (HHV)

Nhóm virus này có liên quan tới thải bỏ mảnh ghép và ức chế tủy xương ở người ghép tổ chức, gây viêm phổi và viêm não ở bệnh nhân AIDS.

Bệnh sởi

Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.

Bệnh bạch hầu

Có thể gặp các thể bệnh ở mũi, họng, thanh quản và ở da. Nhiễm khuẩn ở mũi có rất ít triệu chứng, chủ yếu là chảy nước mũi.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu

Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Nhiễm khuẩn da do liên cầu

Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.

Dengue: bệnh virus toàn thân

Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.

Bệnh uốn ván

Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.