Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A

2016-03-15 09:43 AM

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Liên cầu nhóm A còn có thể gây ra viêm khớp, viêm phổi, viêm mủ màng phổi, viêm màng trong tim và viêm cân hoại tử. Ngoài ra, còn có thể gặp hội chứng sốc nhiễm độc tố do liên cầu gây nên.

Viêm khớp thường xảy ra đồng thời với viêm tây tổ chức tế bào. Ngoài điều trị bằng kháng sinh (penicillin G, 2 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch 6 lần mỗi ngày hoặc cefazolin hay vancomycin liều giống như trong viêm tấy tổ chức tế bào nêu trên nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin), còn phải hút mủ khớp nhiều lần. Rất ít khi phải mở dẫn lưu bằng ngoại khoa, trừ trường hợp viêm mủ khớp vai và khớp háng là những nơi khó dẫn lưu được bằng cách hút qua da.

Viêm phổi và viêm mủ mảng phổi. Đây là một bệnh có đặc điểm là phá hủy nhiều tổ chức phổi, tiến tiền nhanh và nặng, gây di chứng hoặc tử vong cao. Penicillin liều cao đường toàn thân phối hợp với dẫn lưu mủ bằng ống đặt qua thành ngực là biện pháp điều trị cần thiết trong viêm mủ màng phổi. Nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin thì có thể dùng vancomycin thay thế.

Liên cầu A cũng có thể gây viêm nội tâm mạc, chủ yếu là do nhiễm khuẩn huyết đồng thòi với viêm phổi, đặc biệt là ở những người tiêm chích ma tuý. Nếu có nghi ngờ viêm nội tâm mạc, cần điều trị bằng penicillin G, 4 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch ngày 6 lần, trong vòng 4 tuần. Nếu dị ứng với penicillin thì dùng vancomycin 1000mg đường tĩnh mạch, ngày 2 lần.

Viêm cân hoại tử là tình trạng viêm màng cân cơ sâu lan toả nhanh chóng. Bệnh nhân đến khám có thể có bệnh cảnh giống viêm tấy tổ chức tế bào nặng nhưng lại kèm theo đau dữ dội và tình trạng nhiễm trùng - nhiễm độc toàn thân và sau đó có tình trạng mất cảm giác vùng bị bệnh do phá hủy các đầu mút thần kinh do nhiễm khuẩn vượt quá lớp cân. Đây là những dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán. Khi nghi ngờ, bắt buộc phải chỉ định mở thăm dò, vì việc mở rộng và cắt lọc sớm là cách điều trị cần thiết để tránh tử vong.

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận. Những bệnh nhân quá trẻ, quá già và những người có các bệnh nội khoa từ trước sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh này. Khác với trong hội chứng tương tự nhưng do tụ cầu gây nên, hội chứng này là do liên cầu, thường có vãng khuẩn huyết kèm theo. Ngoài ra, có thể không có ban ngoài da và bong da. Ở những bệnh nhân có hội chứng này điển hình, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 80%. Hội chứng này là do độc tố đỏ da gây sốt (giống như trong bệnh tinh hồng nhiệt), là một siêu kháng nguyên, kích thích cơ thể giải phóng ồ ạt một lượng quá lớn các cytokin là chất gây viêm, và gây ra tình trạng như sốc. Thường chỉ có clindamycin là có thể ức chế được vi khuẩn sinh độc tố này, còn penicillin thì không.

Đến nay, penicillin vẫn là thuốc được chọn để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng do liên cầu. Nhưng một số tác giả lại bổ sung thêm clindamycin tĩnh mạch, 600mg, ngày 3 lần. Bệnh cảnh này thường thấy do có sự xâm nhập của các dòng vi khuẩn độc lực cao đến từ những người lành mang vi khuẩn.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh bạch hầu

Có thể gặp các thể bệnh ở mũi, họng, thanh quản và ở da. Nhiễm khuẩn ở mũi có rất ít triệu chứng, chủ yếu là chảy nước mũi.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Sốt hồi quy

Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.

Nhiễm khuẩn da do liên cầu

Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Những hội chứng do virus epstein barr

Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.

Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Sốt xuất huyết

Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.

Bệnh tả

Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Sốt vàng

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.