Các bệnh do nấm Actinomyces

2016-05-03 01:03 PM

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Có tiền sử nhiễm khuẩn răng hay chấn thương bụng gần đây.

Viêm phổi mạn tính hay các ổ áp xe âm ỉ vùng mặt cổ hay trong ổ bụng.

Có sự tạo đường xoang.

Nhận định chung

Nấm Actinomyces israelii và các loại actinomyces khác là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng và hốc hạnh nhân khẩu cái. Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương và có mặt các vi khuẩn kỵ khí khác, các actinomyces này trở nên gây bệnh. Đa số trường hợp nhiễm khuẩn này nằm ở khu vực mặt - cổ (khoảng 60%), đặc biệt hay gặp sau khi nhổ răng hoặc có chấn thương nào đó. Cũng có thể gặp tổn thương tại đường tiêu hóa hay ở phổi do nuốt hoặc hít phải chất dịch từ miệng xuống.

Dấu hiệu và triệu chứng

Nhiễm nấm actinomyces vùng mặt - cổ

Bệnh phát triển chậm, vùng tổn thương trở nên cứng, da phía trên vùng tổn thương màu hơi đỏ hoặc tím. Có thể áp xe rò ra ngoài kéo dài. Có thể tìm thấy từng đám vi khuẩn dạng sợi giống như các hạt sulfur trong mủ. Thường không đau, trừ khi có bội nhiễm. Khi có cứng hàm chứng tỏ đã có tổn thương cơ cắn. Chụp X quang có thể thấy xương bị tổn thương.

Nhiễm nấm actinomyces lồng ngực

Tổn thương ở phổi bắt đầu bằng sốt, ho nhiều đờm, ra nhiều mồ hôí ban đêm và sụt cân. Có thể có đau thành ngực do viêm màng phổi. Có thể hình thành nhiều xoang lan đến thành ngực, đến tim hoặc khoang màng bụng. Xương sườn có thể bị tổn thương. Chụp X quang phổi có thể thấy nhiều vùng đông đặc và hay gặp tràn dịch màng phổi. Bệnh lý ở ngực hoặc mặt - cổ có thể lan lên hệ thần kinh trung ương gây áp xe não hoặc viêm màng não.

Nhiễm nấm actinomyces ở ổ bụng

Thường gây đau vùng hồi - manh tràng, sốt thành cơn có ớn lạnh, nôn, sụt cân nên thậm chí bị nhầm với bệnh Crohn. Có thể sờ thấy khối bờ không đều. Dùng dụng cụ tránh thai lâu ngày có thể gây viêm nhiễm vùng tiểu khung do actinomyces. Đôi khi có thể có hiện tượng dẫn lưu xoang ra ngoài gây rò. Chụp CT có thể thấy khối viêm, đôi khi thấy lan rộng đến xương.

Biểu hiện cận lâm sàng

Xét nghiệm mủ có thể thấy vi khuẩn gram (+) kỵ khí dạng sợi rải rác hoặc dạng hạt. Cần nuôi cấy trong môi trường kỵ khí để phân biệt với nocardia vì cách điều trị không giống nhau.

Điều trị

Thuốc đầu tay là penicillin G. Thường dùng 10 - 20 triệu đơn vị mỗi ngày, kéo dài từ 2 - 4 tuần bằng đường tiêm rồi sau đó chuyển sang uống 500mg penicillin V ngày 4 lần.

Các sulfamid như sulfamethoxazol có thể dùng điều trị với tổng liều hàng ngày là 2 - 4g. Đáp ứng với điều trị thường chậm, cần điều trị kéo dài nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng sau khi hết các biểu hiện lâm sàng để đảm bảo không tái phát. Đôi khi cần mổ dẫn lưu hoặc cắt lọc rộng rãi.

Tiên lượng thường tốt khi được điều trị bằng penicillin và cắt lọc dẩn lưu. Tuy nhiên, do khó khăn về chẩn đoán, nên nhiều khi tổn thương lan rộng phá hủy tổ chức nhiều trước khi có chẩn đoán chính xác bệnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Vết thương do người và xúc vật cắn

Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Bệnh mèo cào

Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.

Bệnh do Ehrlichiae

Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.

Virus hợp bào đường hô hấp

Virus này gây bệnh nặng nhất vào lúc mà kháng thể đặc hiệu của người mẹ hằng định mặc dù nồng độ kháng thể cao có thể làm thay đổi hoặc phòng được bệnh.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Thương hàn

Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.

Nhiễm Adenovirus

Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.

Ho gà

Các triệu chứng bệnh ho gà thường kéo dài 6 tuần và diễn biến theo 3 giai đoạn liên tiếp: giai đoạn viêm long ban đầu, có đặc điểm là khởi phát kín đáo.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Bệnh do Leptospira

Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân

Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.

Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên

V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.

Bệnh dại

Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Sốt do ve

Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.