Tạo miễn dịch chủ động chống lại các bệnh nhiễm khuẩn

2016-02-29 09:58 PM

Nhiều loại vaccin được khuyên dùng cho người lớn tùy thuộc theo tình trạng tiêm phòng trước đó của mỗi người và những nguy cơ phoi nhiễm với một số bệnh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho trẻ nhỏ, trẻ em và vị thành niên

Mọi đối tượng, dù là trẻ em hay người lớn, nên được duy trì đủ yếu tố  bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn bằng cách gây miễn dịch. Phác đồ khuyên dùng và liều lượng thường thay đổi, vì vậy mọi người nên thường xuyên xem tờ chỉ dẫn của nhà sản xuất có trong hộp thuốc.

Phác đô tạo miễn dịch chủ động cho trẻ em được trình bày ở bảng. Khuyến cáo lưu ý là tất cả trẻ vị thành niên cần được chăm sóc sức khỏe ở độ tuổi 11 - 12 tuổi. Mục đích là đảm bảo tiêm chủng đầy đủ cho những người còn chưa tiêm chủng phòng virus thủy đậu và viêm gan B. Để đảm bảo chắc chắn cần nhắc lại lần hai mũi tiêm phòng sởi - quai bị - rubella, cũng như đợt phòng uốn ván và bạch hầu (Td); đồng thời có thể chỉ định tiêm phòng thêm (cúm và phế cầu khẩn) cho một số cá nhân có nguy cơ cao.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho người lớn

Nhiều loại vaccin được khuyên dùng cho người lớn tùy thuộc theo tình trạng tiêm phòng trước đó của mỗi người và những nguy cơ phoi nhiễm với một số bệnh.

Bảng. Phác đồ khuyên dùng gây miễn dịch chủ động

Phác đồ khuyên dùng gây miễn dịch chủ động 

Trích tứ: Những chi dẫn chung về tiêm chủng: Lời hướng dẫn lấy từ ủy ban cố vấn về thực hành miễn dịch, Ann Intern Med 1989; 111; 113.

1Hộp thuốc nên cần được tham khảo về liều lượng, bảo quản và cách sứ dụng. Nhiều nhà sản xuất có thể thay đổi sản phẩm cảa họ theo thời gian.

2HBV (Hepatitis B vaccine - vaccin viêm gan B). Có thể dùng theo 2 cách. Thêm vào một cách đã dược liệt kê trong bảng, một cách dùng khác có 3 liều: liều đầu tiêm vào 1- 2 tháng, liều thứ 2 vào 4 tháng và liều thứ 3 vào 6 - 18 tháng. Loại vaccin này có thể dùng dồng thời với DTP, HbCV, MMR và OPV.

3DTP (Diphtheria letawus toxoids perliissisvaccin - vaccin gồm độc tốbạch hầu, uốn ván và ho gà ở dạng hấp thụ). DTP có thể sừ dụng cho trẻ sơ sinh vào ngày thứ 7.

4Tetramune, vaccin tổ hợp của DTP và Hemophilus influenzae typ b. Có thể dùng thay thế cho đối tượng tiêm, phòng vào 1,4 và 6 tháng.

5OPV (Live oral poliovirus vaccine - vaccin bại liệt sống đường uống, tam hóa trị, chứa virus bại liệt typ 1, 2 và 3).

6HbCV (H. influenzae type b conjugated vaccin - kháng nguyên polysaccharid loại b của H. infuenzae phối hợp với protein mang. Vaccin liên hợp này được ưa chuộng hơn vaccin polysachacrid. Nếu không có loại liên hợp có thể dùng vaccin Polysaccharid vào lúc 24 tháng hoặc muộn hơn. Trè em dưới 5 tuổi đả được tiêm chủng từ trước bằng loại vaccin Polysaccharid thì nên được tiêm nhắc lại bằng vaccin liên hợp trong thời gian từ 18 đến 23 tháng tuổi.

7VV (Varicella vaccin - Vaccin thùy dậu), vaccin sống giảm độc lực thì không nên dùng cho các bệnh nhân bị rối loạn miễn dịch, nhưng nó được chỉ dịnh cho ở tất cả các trẻ nhỏ trên 12 tháng tuổi không có tiền sử ho gà.

8Ít nhất 6 tháng kể từ khi dùng DTP-3; hoặc nêu đã dùng dưới 3 liều DTP ít nhất sau 6 tuần kể từ liều DTP hoặc OPV cuối cùng. MMR không nên trì hoãn mà cho dùng đồng thời MMR, DTP-4 và OPV-3. Có thể chấp nhận dùng MMR vào 15 tháng và DTP-4, OPV-3 vào lúc 18 tháng.

9MMR (Measles, mumps, rubella virus vaccine - vaccin virus sởi, quai bị, rubella sống), ở những vùng có nguy cơ cao (nhiều hơn 5 trường hợp bị sởi ở trẻ trước tuổi đến trường, trong 5 năm gần dây hoặc ở một thị trấn mới có bùng nổ dịch trong số những trẻ chưa được tiêm chúng trước tuổi đến trường), tiêm chủng MMR lần đầu vào lúc 12 tháng tuổi.

10DTaP (Diphtheria, tetanus, acellular pertussis vaccine - vaccin bạch hầu, độc tốuốn ván, ho gà không có thành phần tế bào), được khuyên dùng liều thứ 4 hoặc 5 ở trẻ >15 tháng tuổi vì có liên quan với một số rất ít tác dụng phụ hơn là vaccin DTP có chứa toàn bộ thành phần vi khuẩn ho gà.

11Td (Tetanus, diphtheria toxoids -vaccin độc tốuốn ván và bạch hầu ở dạng hấp phụ). Được sử dụng ở trẻ trên 7 tuổi chứa một số lượng như nhau độc tốúốn ván và bạch hầu nhung ít độc tố ho gà hơn.

Độc tố bạch hầu - uốn ván

Mỗi người có thể nhận một số vaccin đầu tiên chống lại uốn ván và bạch hầu (bảng). Những người lớn chưa được tiêm chủng lần nào thì nên tiêm 2 liều Td vào thời điểm 1 và 2 tháng, tiếp theo là liều nhắc lại vào 6 - 12 tháng sau đó. Những người lớn đã có miễn dịch một phần với DTP khi còn nhỏ chỉ cần có đủ tổng cộng 3 liều độc tố uốn ván và bạch hầu (nếu đã tiêm một liều lúc nhỏ thì sẽ tiêm thêm 2 liều Td; nếu đã tiêm 2 liều thì chỉ cần 1 liều Td là đủ). Cách truyền thông là dùng các liều Td củng cố cứ mỗi 10 năm trong suốt cuộc đời. Một cách làm khác cũng nhấn mạnh rằng việc đảm bảo cho tất cả người lớn được miễn dịch ban đầu và khuyên chỉ dùng 1 liều Td nhắc lại duy nhất vào giữa cuộc đời (ở tuổi 50) cho những người đã được miễn dịch đầy đủ lúc nhỏ, bao gồm cả liều nhắc lại ở tuổi thiếu niên. Nếu dùng liều nhắc lại quá thường xuyên, phản ứng Arthus cũng như là hiện tượng sưng, đau tại chỗ có thể xảy ra. Vaccin ho gà có thể được kết hợp với độc tố uốn ván - bạch hầu để sử dụng cho trẻ nhỏ (DTP), không nên sử dụng cho người lớn bởi vì nó hay xuất hiện các phản ứng phụ đối với loại vaccin có toàn bộ thành phần của vi khuẩn ho gà. Mặc dù thanh niên và người trưởng thành có miễn dịch yếu có thể là nguồn đối với B. pertusis và tạo miễn dịch, nhưng không có loại vaccin nào được đánh giá ở những người trên 7 tuổi, và với lý do đó không được khuyến cáo dùng cho nhóm người này.

Sởi

Những người lớn sinh từ trước 1957 được coi là miễn dịch với bệnh sởi. Người lớn sinh vào năm 1957 hoặc muộn hơn mà chưa có tài liệu ghi lại là đã được tiêm chủng sau 1 tuổi hoặc không có các ghi chép của thầy thuốc hoặc xét nghiệm chứng tỏ có các nhiễm khuẩn trước đây, sẽ được tiêm 1 liều vaccin sởi. Những người sinh từ năm 1963 và 1967 (giai đoạn này chỉ có vaccin sởi bất hoạt) cũng nên được tiêm 1 liều vaccin sống giảm độc lực. Những người đã được miễn dịch lần đầu lúc sinh nên nhận 1 liều vaccin. Bởi vì hầu hết người lớn không có những thông tin chi tiết về tiêm chủng hoặc đã mắc bệnh lúc nhỏ nên thực hiện tiêm 1 liều MMR cho tất cả người lớn khoẻ mạnh sinh sau 1956. Vì bởi dịch sởi có thể bùng nổ ở người trẻ tuổi đã được tiêm 1 liều vaccin phòng sởi nên cần phải tiêm phòng nhắc lại đặc biệt là trước khi tới trường đại học, khi bắt đầu công việc của nhân viên y tế hoặc khi đi du lịch ra nước ngoài tới những vùng có dịch sởi lưu hành. Với những người bắt đầu đến trường phổ thông hoặc trường đại học và những nhân viên y tế chưa được tiêm phòng vaccin trước đây thì nên tiêm 2 liều vaccin cách nhau ít nhất là 1 tháng. Việc tiêm phòng nhắc lại ở một người đã có miễn dịch sẽ không xảy ra các dụng phụ nếu như tình trạng tiêm chủng chưa được biết rõ và nếu có chỉ định tiêm phòng vaccin thì có thể được tiến hành an toàn. Tiêm phòng vaccin cho những người dễ mắc bệnh trong vòng 72 giờ sau khi tiếp xúc với người bị bệnh sởi là một biện pháp bảo vệ.

Khoảng 5 - 15% số người không được tiêm chủng sẽ có sốt và có khoảng 5% có phát ban nhẹ sau khi tiêm 5 - 12 ngày. Sốt và phát ban tự khỏi, chỉ kéo dài trong vòng 2 - 3 ngày. Sưng và cứng tại nơi viêm đặc biệt thường thấy ở những người được tiêm chủng trước đó bằng vaccin bất hoạt. Phụ nữ có thai, những người bị suy giảm miễn dịch (loại trừ các trường hợp nhiễm HIV không triệu chứng) cần phải tiêm phòng nếu như nghi ngờ. Dữ liệu gần đây cho rằng vaccin MMR có thể vẫn an toàn đối với những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với trứng thậm chí dị ứng nặng. Có thể dùng một liều 0,5ml mà không cần thử test da hoặc giải mẫn cảm trước đó miễn là theo dõi trong vòng 90 phút sau khi tiêm.

Bệnh rubeon (Rubella)

Mục đích chính của tiêm phòng rubella là phòng ngừa sự lây truyền qua thai nhi. Tiêm phòng được đề nghị đối với tất cả người lớn nhưng đặc biệt là cho phụ nữ trong độ tuổi sinh nở mà không được tiêm phòng trước đó. Thêm vào đó tất cả nam và nữ làm việc tại bệnh viện có thể tiếp xúc với bệnh nhân bị sốt phát ban hoặc đã từng tiếp xúc với các bệnh nhân có thai thì nên tiêm phòng. Chỉ nên tiêm 1 liều vaccin tam trị MMR, nhưng nếu đã có miễn dịch với một hoặc nhiều thành phần thì có thể dùng vaccin đơn hoặc kép. Vì chi phí của các test huyết thanh thường quy để xác định các bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh và việc tiêm phòng nhắc lại của những người đã có miễn dịch không gây ra với các tác dụng phụ nên không cần thiết phải làm test huyết thanh trước khi tiêm.

Các tác dụng phụ thường là nhẹ. Khoảng trên 40% số người lớn không được tiêm chủng (thường là phụ nữ) có triệu chứng đau khớp. Triệu chứng đau khớp bắt đầu từ 1- 3 tuần sau khi tiêm, kéo dài 3 - 10 ngày và tự khỏi. Rất hiếm có viêm khớp rõ. Mặc dù không khuyên tiêm vaccin cho phụ nữ có thai, các số liệu đã có gợi ý rằng với dòng vaccin RA 27/3 (hiện đã có loại này) thì hội chứng do rubella bẩm sinh không xuất hiện ở trẻ sinh ra từ các bà mẹ đã được tiêm chủng trong khi mang thai hoặc 3 tháng trước khi thụ thai. Những người bị suy giảm miễn dịch do mắc bệnh hoặc do thuốc thì không nên tiêm chủng. Nhiễm HIV là một trường hợp ngoại lệ - nên dùng vaccin cho những người không có triệu chứng và có thể cân nhắc đối với những bệnh nhân có triệu chứng. Vì vaccin có chứa một lượng rất nhỏ neomycin (dạng vết) nên chống chỉ định dùng cho những trường hợp có tiền sử dị ứng với loại kháng sinh này.

Quai bị

Vaccin quai bị được khuyên dùng đối với tất cả người lớn được cho là có thể mắc bệnh. Những người sinh trước 1957 được cho là có miễn dịch tự nhiên và không cần phải dùng vaccin. Những người sinh tử 1957 trở đi được cho là dễ mắc bệnh trừ khi họ có thể cung cấp thông tin về nhiễm quai bị, bằng chứng của việc tiêm phòng hoặc có những bằng chứng xét nghiệm về tình trạng miễn dịch. Tiêm chủng cho những người đã có miễn dịch cũng không làm tăng tỷ lệ các tác dụng phụ.

Vaccin quai bị nhìn chung là an toàn. Không nên dùng cho những người bị suy giảm miễn dịch (trừ nhũng bệnh nhân nhiễm HIV) hoặc những người có tiền sử dị ứng với neomycin.

Cúm

Vaccin cúm được khuyên dùng hàng năm. Những người có nguy cơ cao đối với biến chứng nặng của cúm thì nên được ưu tiên trong những chương trình tiêm chủng: (1) Người lớn và trẻ em có bệnh tim phổi mạn tính, bao gồm cả trẻ bị hen. (2) Những người ở các bệnh viện tư và các cơ sở chăm sóc dài ngày khác. (3) Những người khoẻ mạnh từ 65 tuổi trở nên. (4) Người lớn và trẻ em cần phải theo dõi sức khoẻ định kỳ hoặc nằm viện trong năm vừa qua do các rối loạn chuyển hóa mạn tính (bao gồm cả đái tháo đường) hoặc bệnh thận, những người có bệnh về huyết sắc tố và những người dùng thuốc ức chế miễn dịch. (5) Trẻ em và thiếu niên (từ 6 tháng đến 18 tuổi) phải dùng liệu pháp aspirin kéo dài và có thể tăng nguy cơ phát triển hội chứng Reye sau khi cúm. (6) Phụ nữ có thai mà 3 tháng thứ hai hoặc thứ ba đúng vào mùa cúm.

Một số nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao (người già, bệnh nhân AIDS, bệnh nhân cấy ghép tổ chức) có thể có đáp ứng kháng thể kém với vaccin nhưng không có lỹ do để không dùng vaccin cho họ. Các nghiên cứu gần đây gợi ý rằng những bệnh nhân HIV dương tính thì sau tiêm vaccin có giai đoạn ngắn (2 - 4 tuần) tăng virus HIV trong máu và sự sao chép của virus. Ý nghĩa lâm sàng của phát hiện này còn chưa rõ và tiến triển của bệnh sau tiêm vaccin chưa được quan sát. Vì vậy lợi ích của tiêm phòng ở những bệnh nhân HIV dương tính là lớn hơn các nguy cơ lý thuyết. Nhằm phòng bệnh ở những bệnh nhân có nguy cơ cao, nên tiêm chủng cho cả các thành viên trong gia đình và những nhân viên y tế đã từng tiếp xúc với các bệnh nhân có nguy cao này. Mặt khác việc tiêm chủng cũng được khuyên dùng cho những người khoẻ mạnh phải làm các dịch vụ cộng cộng chủ yếu.

Phản ứng tại chỗ (ban đỏ và nhậy cảm đau) ở vị trí tiêm là thường gặp, nhưng sốt, rét run và mệt (kéo dài 2 - 3 ngày trong hầu hết các trường hợp) lại thường hiếm gặp. Giống như vaccin sởi, quai bị và sốt vàng, vaccin cúm được làm bằng cách sử dụng phôi trứng gà và những người có tiền sử dị ứng với trứng thì không nên tiêm phòng. Vaccin cúm có thể liên quan với các test huyết thanh dưcmg tính giả với HIV, HTLV-1 và viêm gan C. Test huyết thanh dương tính.Viêm kéo dài từ 2 đến 5 tháng và tự mất đi.

Bệnh phổi do phế cầu

Vaccin phế cầu có các polysaccharid tinh khiết từ 23 trong số các chủng thường gặp nhất của phế cầu, nó gây ra 90% các trường hợp viêm nhiễm do vi khuẩn. Đáp ứng kháng thể sau khi dùng vaccin phụ thuộc vào tình trạng miễn dịch của bệnh nhân và sự có mặt của các bệnh đồng thời. Những người khoẻ mạnh có đáp ứng kháng thể rất tốt cũng như là các bệnh nhân sau cắt lách và các bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm. Người già và người mắc bệnh mạn tính (đái tháo đường, xơ gan do rượu, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính) sẽ có tăng nồng độ kháng thể sau tiêm phòng nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với người trẻ tuổi khoẻ mạnh. Các bệnh nhân bị bệnh Hodgkin đáp ứng với tiêm phòng nếu như họ được dùng trước khi cắt lách, điều trị tia xạ, hoặc hóa trị liệu; trong khi đó các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp, u lympho, nhiễm HIV thì đáp ứng tồi hơn.

Mặc dù hiệu quả của vaccin phế cầu vẫn còn được bàn cãi, nhưng phần lớn các nghiên cứu sau khi được công nhận đã chỉ ra rằng tiêm phòng vaccín có hiệu quả khoảng 60% trong việc phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn ở các bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường, ở những bệnh nhân có bệnh lý (không gây tổn thương miễn dịch nặng nề) hiệu quả là 50%, thậm chí còn thấp hơn ở các bệnh nhân có rối loạn miễn dịch (chỉ 10% có hiệu quả), phần lớn vì không có khả năng đáp ứng kháng thể ở nhóm bệnh nhân này. Vaccin cũng được dùng cho những bệnh nhân có tăng nguy cơ phát triển bệnh do phế cầu nặng, đặc biệt là các bệnh nhân đã cắt lách và những bệnh nhân bị bệnh hồng cầu hình liềm. Vaccin cũng được khuyên dùng đối với những người có tăng nguy cơ phát triển do bệnh phế cầu, bao gồm cả những người có bệnh mạn tính (bệnh tim phổi mạn, nghiện rượu, xơ gan, rò dịch não tủy) và những người bị suy giảm miễn dịch (bệnh nhân bị bệnh Hodgkin, u lympho, bệnh bạch cầu kinh dòng lympho, đa u tủy, suy thận mạn, hội chứng thận hư, bệnh nhân cấy ghép tổ chức, có dùng liệu pháp ức chế miễn dịch bao gồm cả các steroid dùng đường toàn thân kéo dài, nhiễm HIV không triệu chứng hoặc có triệu chứng) và những người dùng thuốc ức chế miễn dịch. Thêm vào đó, nó còn được dùng cho người già trên 65 tuổi. Liệu rằng 65 có phải là thích hợp để tiêm vaccin cho người trưởng thành khỏe mạnh hay không vẫn chưa rõ. Đáp ứng kháng thể giảm theo tuổi và nhiều người cho rằng nên tiêm phòng thường qui ở tuổi 50 giống như uốn ván. Một liều đơn vaccin thường cho đáp ứng miễn dịch kéo dài. Tiêm nhắc lại 5 năm/lần chỉ nên cân nhắc ở những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất bị nhiễm phế cầu nguy hiểm (bệnh nhân cắt lách) và những người được thấy là có giảm nhanh nồng độ kháng thể (những người có hội chứng thận hư hoặc suy thận, nhiễm HIV, lơxêmi, u lympho, đa u tủy, dùng thuốc ức chế miễn dịch, cấy ghép tổ chức) và những người 65 tuổi đã được tiêm vaccin trước đó 5 năm hoặc hơn, và những người dưới 65 tuổi ở thời điểm tiêm vaccin đầu tiên. Những người già chưa rõ tình trạng tiêm vaccin nên được tiêm một lần. Những người đã tiêm vaccin ở tuổi 65 hoặc nhiều hơn không tiêm nhắc lại.Tiêm nhắc lại cũng nên được xem xét đối với những người có nguy cơ cao đã được tiêm trước đó bằng loại vaccin cũ có 14 hóa trị. Vì các bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường đáp ứng tốt nhất với vaccin, nên tiêm vaccin trước khi cắt lách hoặc trước khi bắt đầu điều trị hóa chất nếu như có thể.

Phản ứng nhẹ (nổi ban đỏ, đau) xảy ra trên 50% số người cấy ghép tổ chức nhưng hiếm gặp phản ứng toàn thân. Tỷ lệ mắc các phản ứng phụ khi tiêm phòng nhắc lại chưa được biết nhưng nhiều khả năng là nó có liên quan tới khoảng cách giữa các lần tiêm. Các báo cáo ban đầu gợi ý rằng các phản ứng phụ thường có khi tiêm phòng nhắc lại trong vòng 1- 2 năm. Các báo cáo tiếp theo đã chỉ ra rằng có rất ít các phản ứng phụ khi tiêm nhắc lại sau 5 năm hoặc lâu hơn.

Viêm gan B

Vaccin viêm gan B tái tổ hợp được dùng tiêm bắp vào cơ delta (vì việc tiêm phòng vaccin này thường gây ra sự ứ đọng vaccin trong mỡ nhiều hơn là ở trong cơ với sự chuyển đổi huyết thanh ít hơn) và dùng theo 3 liều: hai liều đầu cách nhau 1 tháng và liều cuối cùng cách liều thứ hai 5 tháng. Nó được khuyên dùng cho tất cả các đối tượng có tăng nguy cơ bị viêm gan B vì lý do xã hội (tiêm chích, đồng tính luyến ái nam), lý do gia đình (những người tiếp xúc trong gia đình hoặc quan hệ tình dục với người mang virus viêm gan B) hoặc vì lý do nghề nghiệp (những người thường xuyên tiếp xúc với máu và các sản phẩm của máu, nhân viên y, những người mổ tử thi). Đối với những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch và những những bệnh nhân phải phải lọc máu liên tục, đáp ứng huyết thanh với liều chuẩn vaccin thường thấp và vì lý do đó hiện nay đã có những chế phẩm với liều vaccin cao hơn (40µg/ml). Cùng với liều vaccin cao hơn, các bệnh nhân này đòi hỏi được tiêm chủng thường xuyên hơn và một số chuyên gia đã khuyên là phải sàng lọc hàng năm để xác định xem có cần tiêm nhắc lại hay không. Mặc dù hầu hết thường sử dụng để dự phòng trước khi phơi nhiễm, vaccin cũng được dùng để phòng sau khi phơi nhiễm cùng với immunoglobulin viêm gan B, sau khi bị tổn thương do kim tiêm đâm hoặc phơi nhiễm màng niêm mạc với máu của người có HBsAg(+). Nó cũng được dùng cùng với immunoglobulin viêm gan B cho những trẻ được sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg(+). Miễn dịch giảm đi theo thời gian nhưng không cần theo dõi huyết thanh học định kỳ và không nên khuyên tiêm vaccin một cách thường qui. Các phản ứng phụ thường rất nhẹ và chỉ là đau tại chỗ.

Sau khi tiêm phòng, 90 - 95% số người trẻ khoẻ sẽ có kháng thể bảo vệ. Một số yếu tố  làm giảm đáp ứng huyết thanh bao gồm những người trên 30 tuổi, suy thận, nhiễm HIV, đái tháo đường, bệnh gan mạn tính, béo phì và nghiệm thuốc lá. Test huyết thanh kiểm tra sau tiêm không được làm thường qui. Nó chỉ dành cho những người làm lâm sàng dễ bị ảnh hưởng bởi tình trạng miễn dịch của họ (nhân viên chăm sóc sức khoẻ, trẻ sinh ra từ mẹ có HBsAg(+), bệnh nhân phải lọc máu) và những người có thể bị suy giảm miễn dịch đáp ứng miễn dịch. Những người không có đáp ứng có thể tiêm thêm 3 liều vaccin thứ hai và làm test huyết thanh 1- 2 tháng sau khi tiêm. Những người vẫn không đáp ứng có thể đã bị nhiễm bệnh và nếu đã nhiễm bệnh cần dùng cả globulin miễn dịch của viêm gan B.

Thủy đậu

Vaccin virus thủy đậu sống giảm độc tính hiện nay được khuyến cáo là một loại tiêm chủng phổ biến cho trẻ em (bảng). Mặc dù chỉ có 10% người trưởng thành còn nhậy cảm với thủy đậu những bệnh thủy đậu ở trẻ vị thành niên và người trưởng thành lại nặng hơn rất nhiều, chỉ khoảng 2% trường hợp thủy đậu gặp ở người lớn nhưng tới 50% tử vong lại ở nhóm người lớn. Do đó những trẻ vị thành niên và người trưởng thành dễ mắc cần được tiêm chủng, đặc biệt chú ý tới những nhóm có nguy cơ cao như nhân viên y tế, người nhà nhậy cảm có tiếp xúc với những người bị ức chế miễn dịch, những người ở môi trường nguy cơ cao như làm việc ở các trường nội trú và trường tiểu học, phụ nữ độ tuổi sinh đẻ chưa có thai, những người ở các cơ sở kín như nhà tủ hay trại lính và những người đi du lịch quốc tế. Còn chưa nghiên cứu rộng rãi vai trò của vaccin hiện nay sau khi tiêm dự phòng nhưng có vài báo cáo của Nhật Bản và Mỹ đưa ra rằng hiệu quả tiêm phòng trong đợt bùng phát bệnh đạt tới 90%, đặc biệt nếu tiêm trong vòng 3 ngày sau phơi nhiễm. Vaccin tạo miễn dịch rất tốt. Biến đổi huyết thanh đạt ở 95% trẻ em sau một liều duy nhất, ở trẻ vị thành niên (trên 12 tuổi) và người trưởng thành thấy biến đổi huyết thanh ở 78% sau một liều và 99% sau hai liều. Vì vậy khuyên nên tiêm hai liều cách nhau 4 - 8 tuần cho trẻ từ 12 tuổi trở lên. Thời gian duy trì miễn dịch còn chưa biết nhưng có lẽ là 10 năm. Mặc dù vaccin rất có hiệu quả phòng bệnh nhưng nếu bị nhiễm bệnh thì sẽ nhẹ hơn rất nhiều so với người không tiêm chủng (thường chỉ dưới 50 vết tổn thương kèm triệu chứng toàn thân nhẹ hơn); dù là vaccin an toàn nhưng vẫn có thể có phản ứng phụ sau tiêm 4 - 6 tuần. Nhậy cảm đau và nổi ban đỏ ở chỗ tiêm gặp trong 25% trường hợp, sốt trong 10 - 15%, ban dát sẩn khu trú hoặc ban mụn nước trong 5%, có một tỷ lệ nhỏ hơn bị ban lan toả, thường kèm năm hoặc ít hơn vết tổn thương mụn nước. Có thể có lây bệnh từ vaccin đến những người nhậy cảm, nhưng nguy cơ này là ít kể cả đối với người bệnh suy giảm miễn dịch và nếu bị bệnh thì sẽ nhẹ, điều trị được bằng acyclovir. Vaccin là virus sống giảm độc tính nên không dùng cho người thiếu hụt miễn dịch, bao gồm trẻ em và người lớn có xét nghiệm HIV dương tính, phụ nữ có thai. Chống chỉ định tiêm vaccin cho người dị ứng với neomycin. Theo cơ sở lý thuyết, nên tránh dùng salicylat sau tiêm chủng 6 tuần (để phòng hội chứng Reye). Còn vài vấn đề chưa giải quyết được gồm nhu cầu dùng liều nâng lên, phải chăng tiêm phòng rộng rãi cho trẻ em làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ vị thành niên hay tuổi trưởng thành có khả nâng bị bệnh nặng hơn, phải chăng tiêm phòng có thể tránh được bệnh zona.

Viêm gan A

Vaccin viêm gan A bất hoạt trong formalin (Havaix) hiện đã được công nhận để sử dụng ở Mỹ. Nó được chỉ định cho những đối tượng từ 2 tuổi trở lên có tăng nguy cơ phát triển viêm gan A. Vaccin có tác dụng cả với người du lịch tới những vùng có dịch tễ viêm gan (châu Phi, châu Á, Trung và Nam Mỹ, Mexico, một phần Caribê), những người làm việc trong quân đội, một số vùng dân cư có những đợt bùng nổ dịch viêm gan A (Alaskans) và một số nhóm có nguy cơ cao như là các nhân viên của các trung tâm điều trị hàng ngày, các kỹ thuật viêm phòng xét nghiệm có làm việc với virus viêm gan A sống. Liều đơn 1ml tiêm bắp cho người lớn sẽ làm xuất hiện kháng thể sau 2 tuần trong 80 - 90% số trường hợp và 96% sau 1 tháng. Như vậy vaccin nên được dùng ít nhất là 2 tuần và tốt hơn là 4 tuần trước khi phơi nhiễm. Người lớn nên tiêm một liều 1ml vào cơ delta và trẻ em từ 2 - 18 tuổi nên tiêm hai liều 0,5ml cách nhau 1 tháng. Liều nhắc lại 6 - 12 tháng sau liều ban đầu được khuyên dùng để bảo đảm có nồng độ kháng thể cao. Thời gian bảo vệ của miễn dịch chưa được biết nhưng có thể là kéo dài, vả không nên tiêm phòng nhắc lại. Tác dụng phụ là rất ít và chủ yếu là đau tại vị trí tiêm. Nếu như không có vaccin này, có thể gây miễn dịch thụ động tạm thời dùng bằng cách tiêm bắp immunoglobulin 0,02ml/kg cứ mỗi 2 - 3 tháng hoặc 0,1ml/kg cứ mỗi 6 tháng. Immunoglobulin cũng được khuyên dùng cho ngưòi du lịch tới tất cả các nơi trên thế giới có tình trạng vệ sinh kém và nguy cơ phơi nhiễm cao với viêm gan A do lây truyền qua thức ăn, nước uống và tiếp xúc với bệnh nhân bị nhiễm virus. Sản xuất immunoglobulin từ plasma bao gồm cả các bước gây bất hoạt virus HIV vì vậy các sản phẩm immunoglobulin không có khả năng truyền HIV.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Nhiễm Parovirus

Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng, nhưng có thể xác định bằng tăng nồng độ kháng thể kháng parvovirus loại IGM trong huyết thanh. Sốt tinh hồng nhiệt rất giống bệnh do parvovirus.

Bệnh Lyme

Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.

Bệnh do Leptospira

Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.

Sốt do chuột cắn

Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.

Sốt hồi quy

Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự.

Bệnh xoắn khuẩn không lây qua đường tình dục

Ghẻ cóc là một bệnh truyền nhiễm phân bổ chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, do T. pallidum dưới nhóm pertenue gây nên. Đặc trưng của bệnh là các tổn thưong u hạt ở da, niêm mạc và xương.

Các giai đoạn lâm sàng của Giang mai

Giang mai ẩn là thời kỳ yên lặng sau khi các tổn thương thứ phát mất đi và trước khi các triệu chứng giang mai tái phát xuất hiện.

Diễn biến tự nhiên và các nguyên tắc chẩn đoán và điều trị Giang mai

Các thông số dịch não tủy trong giang mai thần kinh rất đa dạng, Các ca bệnh cổ điển thường có protein tăng, nhiều bạch cầu lympho và phản ứng VDRL dương tính.

Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR

Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.

Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt

Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Bệnh phong

Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.

Viêm màng não do lao

Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Các bệnh do Mycobacteria không điển hình, không phải lao

Các thuốc có tác dụng trong điều trị là rifabutin, azithromycin, clarithromycin, và ethambutol, Amikacin và ciprofloxacin có tác dụng trên thí nghiệm nhưng số liệu về lâm sàng còn chưa đủ để kết luận.

Bệnh do Nocardia

Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.

Nhiễm Adenovirus

Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Virus hợp bào đường hô hấp

Virus này gây bệnh nặng nhất vào lúc mà kháng thể đặc hiệu của người mẹ hằng định mặc dù nồng độ kháng thể cao có thể làm thay đổi hoặc phòng được bệnh.

Bệnh do Hantavirus

Chẩn đoán dựa vào phản ứng huyết thanh học bằng nhuộm hóa học mô miên dịch hoặc bằng kỹ thuật khuyếch đại PCR của ADN virus trong tổ chức.

Các bệnh do nấm Actinomyces

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí

Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.

Bệnh mèo cào

Nhưng vi khuẩn Bartonella quintana cũng có thể gây bệnh u mạch lan toả do vi khuẩn và viêm nội tâm mạc mà khi cấy vi khuẩn không mọc.

Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella

Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.

U hạt vùng bẹn

Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.

Bệnh Hạ cam

Các biến chứng thường gặp là viêm quy đầu và viêm đầu dương vật. Cần chẩn đoán nốt loét hạ cam với các vết loét bệnh khác, đặc biệt là giang mai.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Bệnh dịch hạch

Khởi bệnh đột ngột sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Rubeon: bệnh sởi Đức

Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với sưng viêm hạch dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần. Có thế có sổ mũi.

Bệnh bại liệt

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Bệnh do Brucella

Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.

Các loại bệnh do Campylobacte gây ra

C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.

Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên

V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.

Bệnh tả

Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.

Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli

Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.

Bệnh lỵ trực trùng

Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện tiêu chảy, đau bụng dưới và đi ngoầi đau quặn, mót rặn. Phân có nước, thường có lẫn máu và nhầy.

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.

Viêm dạ dày ruột do Salmonella

Bệnh thường tự hết, nhưng có thể gặp tình trạng vi khuẩn huyết có khu trú ở khớp hoặc trong xương, nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh hồng cầu hình liềm.

Thương hàn

Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.

Vãng khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm

Kháng sinh phải được dùng ngay khi có chẩn đoán, vì điều trị chậm sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong. Nói chung cần dùng bằng đường tĩnh mạch để đảm bảo được nồng độ cần thiết.

Bệnh do Legionella

Thuốc đặc trị bệnh do Legionella gây nên là erythromycin, liều ban đầu là 1g, tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần, sau đó giảm xuống còn 500mg ngày uống 4 lần khi bệnh có dấu hiệu cải thiện; thời gian điều trị là 14 - 21 ngày.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Viêm màng não do não mô cầu

Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.

Ho gà

Các triệu chứng bệnh ho gà thường kéo dài 6 tuần và diễn biến theo 3 giai đoạn liên tiếp: giai đoạn viêm long ban đầu, có đặc điểm là khởi phát kín đáo.

Bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Đa số bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là có bệnh tim từ trước, ngược với một số trường hợp xảy ra trên người không có bệnh tim, chủ yếu là ở người tiêm chích.

Bệnh do vi khuẩn Listeria

Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.

Bệnh bạch hầu

Có thể gặp các thể bệnh ở mũi, họng, thanh quản và ở da. Nhiễm khuẩn ở mũi có rất ít triệu chứng, chủ yếu là chảy nước mũi.

Bệnh than

Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Bệnh uốn ván

Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.

Hoại tử sinh hơi

Bệnh thường khởi phát đột ngột, đau tăng nhanh tại vùng bị bệnh, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, sốt không tương xứng với mức độ nặng.

Nhiễm khuẩn tụ cầu không tiết coagulase

Vì tụ cầu không tiết coagulase là vi khuẩn bình thường trên da người, nên phân lập được nó khó có thể nói đó là nhiễm khuẩn hay nhiễm bẩn khi cấy máu mà tìm thấy có vi khuẩn này.

Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu

Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.

Nhiễm tụ cầu khuẩn huyết

Trường hợp bệnh nhân có nguy cơ cao như người tiểu đường, người có suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ có viêm nội tâm mạc, người ta khuyên nên dùng dài ngày hơn.

Viêm tủy xương do tụ cầu vàng

Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.

Nhiễm khuẩn da và mô mềm do tụ cầu vàng

Viêm da do tụ cầu vàng thường khởi đầu quanh một hay nhiều ổ viêm nang lông, và có thể khu trú để tạo thành nhọt hoặc lan rộng đến vùng da lân cận và tới các mô sâu dưới da tạo thành ung nhọt lớn.

Viêm màng não do phế cầu

Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.

Nhiễm khuẩn do các cầu khuẩn ruột

Vì các kháng sinh này đều không phải là loại kháng sinh diệt khuẩn đối với cầu khuẩn ruột, nên trong trường hợp viêm nội tâm mạc hoặc nhiễm khuẩn nặng khác.

Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A

Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.

Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.

Nhiễm khuẩn da do liên cầu

Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.

Viêm họng nhiễm khuẩn do liên cầu

Liên cầu tan huyết bê ta nhóm A là vi khuẩn gây viêm họng xuất tiết phổ biến nhất. Bệnh lây qua các giọt nước bọt có vi khuẩn.

Hội chứng Kawasaki

Biến chứng chính là viêm động mạch vành, xảy ra ở 20% số trường hợp không điều trị. Những yếu tố liên quan tới phát triển phình động mạch vành là tăng bạch cầu, tăng protein phản ứng C.

Sốt Q

Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.

Bệnh do Ehrlichiae

Ehrlichiae bạch cầu hạt ở người gần đây xuất hiện nhiều hơn. Phân bố địa lý của bệnh giống bệnh Lyme, mặc dù ranh giới phân vùng của bệnh chưa được xác định đầy đủ.

Sốt do ve

Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.

Bệnh đậu do rickettsia

Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.

Sốt đốm xuất huyết vùng núi Rocky

Tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, hạ natri máu, protein niệu, hồng cầu niệu là hay gặp. Dịch não tủy có thể có glucose giảm, tăng nhẹ bạch cầu lympho.

Sốt phát ban do mò truyền

Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.

Sốt phát ban thành dịch do bọ chét

Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Bệnh do rickettsia

Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.

Nhiễm echovirus

Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.

Virus và viêm dạ dày ruột

Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.

Sốt vàng

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.

Sốt xuất huyết

Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Dengue: bệnh virus toàn thân

Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.

Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)

Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào

Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.

Bệnh dại

Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.

Quai bị

Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.

Bệnh sởi

Ban thường xuất hiện 4 ngày sau khi bị bệnh, lúc đầu mọc ở mặt và sau tai. Tổn thương ban đầu là những nốt sẩn như đầu đinh ghim sau hợp lại tạo thành dạng dát sẩn màu đỏ gạch, không đều.

Nhiễm virus herpes typ 6, 7, 8 (HHV)

Nhóm virus này có liên quan tới thải bỏ mảnh ghép và ức chế tủy xương ở người ghép tổ chức, gây viêm phổi và viêm não ở bệnh nhân AIDS.

Bệnh do virus cự bào

Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.

Những hội chứng do virus epstein barr

Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Trong trường hợp có tổn thương hệ thần kinh trung ương dịch não tủy cho thấy tăng áp lực, các tế bào lympho bất thường và protein.

Thủy đậu (varicella) và zona

Sốt và khó chịu thường nhẹ ở trẻ em, và nặng hơn ở người lớn, các tổn thương phỏng nước nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết loét nhỏ.

Virus herpes typ 1 và 2

Các virus herpes typ 1 và 2 chủ yếu gây tổn thương ở vùng miệng tiếp đến là vùng sinh dục. Tỷ lệ huyết thanh dương tính của cả hai nhóm này tăng theo lửa tuổi, riêng đối với typ 2 tăng theo hoạt động tình dục.

Bệnh do vi rút

Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.

Test quá mẫn và giải mẫn cảm

Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

Ỉa chảy ở người du lịch

Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.

Ỉa chảy nhiễm khuẩn cấp tính

Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trong một vài trường hợp có thể phải điều trị sốc mất nước và hỗ trợ hô hấp. Nói chung, phân lớn các trường hợp ỉa chảy cấp tính đều tự khỏi.

Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.

Vết thương do người và xúc vật cắn

Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Nhiễm khuẩn bệnh viện

Nói chung, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường có xu hướng đa kháng và không nhậy cảm với các loại kháng sinh dùng để điều trị nhiễm khuẩn tại cộng đồng.

Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.

Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân

Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.