- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân
Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân
Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Để hoàn thiện tiêu chuẩn của sốt không rõ nguyên nhân (ferer of unknovvn origin - FUO) bệnh nhân phải bị ốm ít nhất là 3 tuần, sốt trên 38°C và không chẩn đoán được nguyên nhân sau một tuần nằm viện. Khoảng thời gian cần thiết được định ra để loại trừ những bệnh nhân bị bệnh kéo dài như là nhiễm virus tự khỏi và phải có thời gian để làm các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh, xét nghiện huyết thanh và nuôi cấy. Do giá thành điều trị tại bệnh viện và khả năng thực hiện nhiều xét nghiệm sàng lọc trên bệnh nhân ngoại trú nên tiêu chuẩn cần một tuần nằm viện thường bị bỏ qua.
Định hướng căn nguyên
Có một số nguyên tắc chung đối với sốt không rõ nguyên nhân cần phải tuân thủ khi tiếp cận chẩn đoán những bệnh nhân này.
Các nguyên nhân thường gặp
Hầu hết các trường hợp có biểu hiện lâm sàng bất thường của các bệnh hay gặp hoặc hiếm gặp như lao, viêm nội tâm mạc, bệnh túi mật và nhiễm HIV (nhiễm tiên phát hoặc nhiễm khuẩn cơ hội) là nguyên nhân chính gây sốt không rõ nguyên nhân hơn là các bệnh Wipple hay là sốt Địa Trung Hải có tính chất gia đình.
Tuổi của bệnh nhân
Ớ người trưởng thành, thì nhiễn khuẩn (chiếm 25 - 40% các trường hợp) và ung thư (chiếm 20 - 40% các trường hợp) chiếm đa số trong các căn nguyên của sốt không rõ nguyên nhân. Ở trẻ em thì nhiễm khuẩn là nguyên nhân hay gặp nhất của sốt không rõ nguyên nhân (5 - 10% các trường hợp). Các bệnh tự miễn gặp ở những trẻ em và người lớn với tần suất như nhau (10 - 20% các trường hợp), tuy nhiên thể bệnh lại khác nhau. Ở trẻ em đặc biệt hay gặp dạng viêm khớp thiếu niên, trong khi lupus ban đỏ hệ thống, bệnh bạch cầu hạt Wegener và viêm nút đa động mạch lại thường gặp ở người lớn. Các bệnh Still, viêm động mạch tế bào khổng lồ và viêm đa cơ khớp chỉ gặp ở người lớn.
Thời gian sốt
Căn nguyên sốt không rõ nguyên nhân ở những bệnh nhân sốt kéo dài 6 tháng hoặc lâu hơn nữa rất thay đổi. Nhiễm khuẩn, ung thư, bệnh tự miễn chiếm khoảng 20% trong các trường hợp này. Trong khi đó, thực tế các bệnh khác như bệnh u hạt (viêm gan dạng u hạt, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng) và sốt giả tạo lại trở thành những nguyên nhân quan trọng. Có tới 27% các bệnh nhân nói họ bị sốt 6 tháng hoặc lâu hơn nhưng thực tế thì lại không sốt và không có bệnh kèm theo. Sự thay đổi nhiệt độ (nhiệt độ buổi chiều cao hơn buổi sáng 1- 2°) được coi là không bình thường. Những bệnh nhân sốt ngắt quãng hoặc sốt tái phát (tức là những bệnh nhân có tiêu chuẩn kinh điển của sốt không rõ nguyên nhân nhưng có khoảng thời gian không sốt kéo dài hai tuần hoặc lâu hơn) cũng tương tự như những bệnh nhân sốt kéo dài. Nhiễm khuẩn, bệnh ác tính và các bệnh tự miễn chỉ chiếm khoảng 20 - 25% những dạng này, còn 25% nữa là các bệnh khác (bệnh Crohn, sốt Địa Trung Hải có tính chất gia đình, viêm phế nang dị ứng). Khoảng 50% các trường hợp sốt không chẩn đoán được nhưng có diễn biến lành tính và mất dần các triệu chứng.
Tình trạng miễn dịch
Ở những bệnh nhân giảm bạch cầu, nhiễm nấm và nhiễm khuẩn tiềm tàng là những nguyên nhân gây sốt hay gặp nhất. Những bệnh nhân đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch (đặc biệt những bệnh nhân được ghép tạng) thì nguyên nhân gây sốt hay gặp nhất là nhiễm cytomegalovirus, nhiễm nấm, nhiễm norcadia, viêm phổi do Pneumocystis cariniivà nhiễm mycobacterium.
Phân loại các nguyên nhân gây sốt không rõ nguyên nhân
Hầu hết các bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân được xếp vào một trong năm nhóm sau.
Nhiễm khuẩn
Cả nhiễm khuẩn toàn thân và tại chỗ đều có thể gây sốt không rõ nguyên nhân. Lao và viêm nội tâm mạc là hai loại nhiễm khuẩn toàn thân hay gặp nhất, tuy nhiên nhiễm nấm, các bệnh do virus (đặc biệt nhiễm virus Epstein- Barr và cytomegalovirus), bệnh do toxoplasma, nhiễm brucella, sốt Q, sốt mèo cào, nhiễm salmonella, sốt rét và một số bệnh nhiễm khuẩn ít gặp cũng có thể gây sốt không rõ nguyên nhân. Nhiễm HIV tiên phát hay nhiễm khuẩn cơ hội ở những bệnh nhân AIDS, đặc biệt nhiễm mycobacterium cũng có thể gẫy sốt không rõ nguyên nhân. Đối với nhiễm khuẩn tại chỗ thì các ổ áp xe tiềm ẩn là nguyên nhân gây sốt hay gặp nhất. Áp xe gan, lách, thận, não, tủy xương cũng có thể rất khó xác định. Mủ có thể tích tụ ở khoang phúc mạc, dưới cơ hoành, dưới gan, cạnh đại tràng và những nơi khác. Viêm đường mật, viêm tủy xương, nhiễm khuẩn tiết niệu, áp xe răng hoặc viêm mủ xoang mũi cũng có thể gây sốt kéo dài.
Ung thư
Rất nhiều ung thư có thể gây sốt không rõ nguyên nhân. Hay gặp nhất là ung thư hạch (cả Hodgkin và không Hodgkin) và bệnh bạch cầu. Các bệnh khác của hạch lympho như u lympho nguyên bào miễn dịch - mạch máu (Angioimmunoblastic lymphoma), hội chứng Kikuchi và bệnh Castleman cũng có thể là nguyên nhân gây sốt. Ung thư gan tiên phát hoặc do di căn, ung thư tế bào biểu mô thận thường rất hay gây sốt. U nhầy tâm nhĩ là một dạng ung thư thường bị bỏ qua cũng có thể là nguyên nhân gây sốt. Bệnh bạch cầu lympho mạn tính và đa u tủy xương ít khi gây sốt, nhưng nếu có sốt thì phải tập trung tìm nguyên nhân nhiễm khuẩn.
Các bệnh tự miễn dịch
Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân. Viêm động mạch tế bào khổng lồ, viêm đa cơ khớp chỉ gặp chủ yếu ở những người trên 50 tuổi và hầu như luôn có tăng tốc độ máu lắng (> 40 mm/giờ).
Các nguyên nhân khác
Rất nhiều các bệnh khác cũng có biểu hiện sốt không rõ nguyên nhân tuy nhiên ít gặp hơn so với các thể bệnh đã nói trên. Ví dụ cường giáp, viêm tụyến giáp, bệnh sarcoid, bệnh Whipple, sốt Địa Trung Hải có tính chất gia đinh, nghẽn mạch phổi tái phát, viêm gan do rượu, sốt do thuốc, sốt giả vờ và một số bệnh khác.
Sốt không rõ nguyên nhân không chẩn đoán được
Mặc dù rất cố gắng đánh giá thì ở 10 đến 15% bệnh nhân sốt vẫn không chẩn đoán được., Khoảng 3/4 số các bệnh nhân này hết sốt dần và các bác sĩ không thể xác định được căn nguyên gậy sốt. Trong số còn lại, hầu hết các triệu chứng lâm sàng điển hình của các bệnh sẽ dần dần biểu hiện với thời gian, lúc đó chẩn đoán sẽ rõ ràng.
Tiếp cận chẩn đoán sốt không rõ nguyên nhân
Do việc đánh giá các bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân rất tốn kém và mất nhiều thời gian nên nhất thiết phải có bằng chứng là bệnh nhân có sốt. Hiệu quả nhất là khi cặp nhiệt độ phải chắc chắn rằng đó không phải là sốt giả vờ (tự gây ra). Các dấu hiệu kèm theo sốt thường là mạch nhanh, ớn lạnh và sởn gai ốc. Thông qua bệnh sử bao gồm gia đình, nghề nghiệp, xã hội (quan hệ tình dục, tiêm chích), dinh dưỡng (các sản phẩm không thanh trùng, thịt ôi thiu), yếu tố phơi nhiễm (súc vật, hóa chất), tiền sử có đi du lịch - có thể hỗ trợ cho chẩn đoán. Thăm khám lâm sàng kĩ lưỡng, nhiều lần có thể phát hiện được các dấu hiệu lâm sàng phụ, mờ nhạt, là chìa khoá để chẩn đoán.
Ngoài các xét nghiệm thường quy, bao giờ cũng phải cấy máu, tốt nhất là cấy vào thời điểm vài ngày đầu khi bệnh nhân chưa dùng kháng sinh. Xét nghiệm huyết thanh chỉ giúp cho chẩn đoán một số bệnh miễn dịch, còn để chẩn đoán các bệnh nhiễm khuẩn gây sốt không rõ nguyên nhân thì ít có giá trị. Tăng hiệu giá huyết thanh một lần sẽ không cho phép chẩn đoán bệnh nhiễm khuẩn; trong khi đó hiệu giá huyết thanh phải tăng hay giảm bốn lần mới khẳng định nguyên nhân gây nhiễm đặc hiệu. Vi nhiễm khuẩn là nguyên nhân hay gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhận nên phải thường xuyên nuôi cấy các chất dịch thể khác như nước tiểu, đờm, phân, dịch não tủy, dịch dạ dày buổi sáng (nếu hướng đến lao). Nhuộn soi lam kính trực tiếp bệnh phẩm máu có thể chẩn đoán được sốt rét hoặc sốt hồi qui (borrelia).
Tất cả các bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân phải được chụp Xquang lồng ngực. Một số các xét nghiệm khác như chụp xoang, chụp hệ tiêu hóa có thuốc cản quang, soi trực tràng đại tràng, theo dõi chức năng của túi mật, đường mật có giá trị thấp nếu được chỉ định như những xét nghiệm sàng lọc. Chúng được sử dụng khi bệnh nhân có những dấu hiệu, triệu chứng hoặc có tiền sử gợi ý về các bệnh ở các cơ quan tương ứng. Chụp cắt lớp ổ bụng và tiểu khung cũng có thể thực hiện thường xuyên và có thể giúp cho chẩn đoán sốt không rõ nguyên nhân. Chụp cắt lớp rất có giá trị cho chẩn đoán ở gan, thận và sau phúc mạc. Khi có kết quả chụp cắt lớp, thăm khám thường được khẳng định để dẫn tới chẩn đoán đặc hiệu. Cũng cần phải nói rằng chụp cắt lớp không phải lúc nào cũng giúp ích cho chẩn đoán. Mặc dù khi chụp cắt lớp không phát hiện bất thường nhưng vẫn phải tiến hành một số thủ thuật gây chảy máu như sinh khiết, soi ổ bụng để chẩn đoán. Vai trò của chụp cộng hưởng từ trong chẩn đoán sốt kéo dài chưa được nghiên cứu đầy đủ. Tuy vậy, nhìn chung chụp cộng hưởng từ sẽ tốt hơn chụp cắt lớp để phát hiện bệnh lý của hệ thần kinh. Siêu âm rất nhạy cảm đối với việc phát hiện các tổn thương trong thận, tụy và đường mật. Để phát hiện viêm nội tâm mạc hay u nhầy tâm nhĩ thì phải siêu âm tim. Siêu âm tim qua thực quản nhậy cảm hơn siêu âm tim ngoài lồng ngực trong việc phát hiện các tổn thương van tim; tuy nhiên nếu kết quả siêu âm âm tính cũng vẫn không loại trừ được viêm nội tâm mạc (có khoảng 10% các trường hợp siêu âm cho kết quả âm tính giả). Lợi ích của các xét nghiệm phóng xạ hạt nhân trong chẩn đoán sốt không rõ nguyên nhân cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Theo lý thuyết, sử dụng gallium gắn bạch cầu sẽ có lợi hơn so với sử dụng các hạt indium vì gallium có thể phát hiện được nhiễm khuẩn và khối u trong khi đó indium chỉ phát hiện được nhiễn khuẩn. Các immunoglobulin gắn indium sẽ là một nghiên cứu phóng xạ hạt nhân khác có thể sử dụng để phát hiện nhiễm khuẩn và ung thư được áp dụng cho các bệnh nhân giảm bạch cầu. Phương pháp này không nhạy đối với những tổn thương ở gan, thận và tim do hoạt tính nền cao. Nói chung, chụp phóng xạ hạt nhân phải thực hiện lâu dài do tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả cao, vì vậy nên không dùng làm xét nghiệm sàng lọc; nếu cần phải sử dụng hạn chế đối với các bệnh nhân có bệnh sử và thăm khám gợi ý các bệnh viêm nhiễm hoặc nhiễm khuẩn khu trú.
Các thủ thuật gây chảy máu luôn cần thiết cho chẩn đoán. Bất cứ một dấu hiệu bất thường nào đều phải được theo dõi tích cực: đau đầu phải chọc dò tủy sống để loại trừ viêm màng não; da vùng nổi ban phải được sinh thiết để phát hiện các biểu hiện ở da của bệnh tạo keo hay nhiễm khuẩn; sưng hạch phải chọc hút hoặc sinh thiết, làm xét nghiệm tế bào để loại trừ bệnh ác tính và gửi nuôi cấy. Sinh thiết tủy xưong là thăm dò hạn chế (trừ những bệnh nhân HIV dương tính có nhiễm lao là nguyên nhân gây sốt không rõ nguyên nhân hay gặp nhất thì sinh thiết tủy xương là thăm dò có giá trị lớn), tuy nhiên nguy cơ thấp và phải thực hiện nếu như các thủ thuật ít gây chảy máu khác chưa có giá trị chẩn đoán. Sinh thiết gan đựợc chỉ định như chẩn đoán đặc hiệu đối với 10 - 15% bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân. Một số ý kiến cho rằng sinh thiết gan phải làm ở tất cả các bệnh nhân có rối loạn chức năng gan cho dù khi thăm khám kích thước của gan vẫn trong giới hạn bình thường. Vai trò của soi ổ bùng còn đang bàn cãi. Nghiên cứu lợi ích của soi ổ bụng trong chẩn đoán vẫn chưa hoàn thiện vì chụp cắt lớp và cộng hưởng từ có ưu thế hơn. Một số ý kiên cho rằng soi ổ bụng được chỉ định cho những bệnh nhân trong tình trạng bệnh tiến triển nếu chẩn đoán còn khó khăn mặc dù đã thăm khám, xét nghiệm tích cực.
Điều trị thử
Điều trị thử được chỉ định nếu nghĩ nhiều đến một chẩn đoán, ví dụ có lý do để cho thuốc chống lao nếu như nghĩ nhiều đến lao hoặc cho tetracyclin nếu nghi ngờ bệnh do brucella. Tuy nhiên nếu không có đáp ứng trên lâm sàng trong vài tuần thì phải ngưng điều trị ngay lập tức và xem xét lại.
Sử dụng corticosteroid theo kinh nghiệm cần phải châm dứt; những thuốc này có thể ức chế sốt nếu cho liều cao, nhưng lại không triệt được nhiễm khuẩn và nhiễm khuẩn vẫn là nguyên nhân chính gây ra sốt không rõ nguyên nhân. Dùng các thuốc chống viêm không có steroid với liều thấp để giảm sốt được báo cáo là đặc hiệu với các trường hợp sốt so ung thư, tuy nhiên số liệu công bố còn hạn chế.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh do rickettsia
Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia
Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.
Sốt phát ban thành dịch do bọ chét
Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Cúm
Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.
Viêm não đám rối màng mạch tăng lympho bào
Triệu chứng biểu hiện bằng 2 giai đoạn. Giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng sốt, rét run, đau cơ, ho và nôn. Giai đoạn màng não biểu hiện đau đầu, buồn nôn, nôn và ngủ lịm.
Quai bị
Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.
Hoại tử sinh hơi
Bệnh thường khởi phát đột ngột, đau tăng nhanh tại vùng bị bệnh, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, sốt không tương xứng với mức độ nặng.
U hạt vùng bẹn
Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.
Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A
Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.
Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch
Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.
Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt
Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.
Bệnh bạch hầu
Có thể gặp các thể bệnh ở mũi, họng, thanh quản và ở da. Nhiễm khuẩn ở mũi có rất ít triệu chứng, chủ yếu là chảy nước mũi.
Viêm họng nhiễm khuẩn do liên cầu
Liên cầu tan huyết bê ta nhóm A là vi khuẩn gây viêm họng xuất tiết phổ biến nhất. Bệnh lây qua các giọt nước bọt có vi khuẩn.
Thương hàn
Trong giai đoạn tiền triệu, triệu chứng thực thể nghèo nàn. Về sau có lách to, bụng chướng và đau, chậm nhịp tim, mạch nhỏ và chìm, đôi khi có dấu hiệu màng não.
Bệnh do Legionella
Thuốc đặc trị bệnh do Legionella gây nên là erythromycin, liều ban đầu là 1g, tiêm tĩnh mạch ngày 4 lần, sau đó giảm xuống còn 500mg ngày uống 4 lần khi bệnh có dấu hiệu cải thiện; thời gian điều trị là 14 - 21 ngày.
Bệnh bại liệt
Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.
Viêm phổi do phế cầu
Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.
Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)
Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.
Nhiễm echovirus
Cũng như nhiễm các virus đường tiêu hóa khác, chẩn đoán cần dựa vào sự tương quan giữa lâm sàng, dịch tễ và xét nghiệm. Có thể nuôi cấy các virus từ dịch súc họng, máu hoặc dịch não tủy vào các tế bào.
Thủy đậu (varicella) và zona
Sốt và khó chịu thường nhẹ ở trẻ em, và nặng hơn ở người lớn, các tổn thương phỏng nước nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết loét nhỏ.
Viêm não do arbovirus
Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.
Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài
Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.
Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao
Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.