Bệnh bại liệt

2016-04-03 09:28 AM

Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Yếu cơ, đau đầu, cổ cứng, sốt, buồn nôn, nôn, đau họng.

Tổn thương thần kinh vận động ở thấp (liệt mềm) với biểu hiện giảm phản xạ gân xương ở sâu, teo cơ.

Dịch não tủy cho thấy tăng bạch cầu, nổi trội là bạch cầu lympho, hiêm khi trên 500 tế bào/µl.

Nhận định chung

Virus bại liệt gây viêm tủy xám là virus đường tiêu hóa thường thấy ở dịch rửa họng và phân. Lây truyền chủ yếu qua con đường phân - miệng. Từ khi sản xuất được vaccin, bệnh bại liệt trở thành bệnh hiếm gặp ở những nước phát triển. Từ 1980 - 1994, ở Mỹ chỉ còn 133 trường hợp, trong đó có trường hợp nhập cư từ nước khác tới, 125 (94%) trường hợp do vaccin gây ra (còn 2 trường hợp không xác định được). Bệnh do virus bại liệt hoang dại đã được loại bỏ tận gốc ở Tây bán cầu. Người ta đã xác định có 3 typ virus và không có miễn dịch chéo giứa chúng. Thời gian ủ bệnh từ 5 - 35 ngày (thường là 7 - 14 ngày). Lây nhiễm xẩy ra mạnh nhất ở tuần đầu, nhưng virus lại được đào thải ra phân trong vài tuần.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Ít nhất 95% những người nhiễm virus là không có triệu chứng, nhưng những người này sẽ bị bệnh sau khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng.

 

Thể nhẹ (thể không tiến triển)

Biểu hiện sốt, đau đầu, nôn, ỉa chảy, táo bón và đau họng.

 

Thể không có liệt

Ngoài các triệu chứng kể trên, có thêm các dấu hiệu của kích thích màng não và co rút cơ.

 

Thể có liệt

Chỉ chiếm 0,1% tất cả các trường hợp bại liệt. Liệt có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong giai đoạn sốt. Run, yếu cơ, táo bón, tắc ruột có thể xuất hiện. Thể này có thể chia làm 2 loại có thể cùng tồn tại

Thể tủy sống: liệt các cơ do dây thần kinh tủy sống chi phối..

Thể hành não: yếu các cơ do các dây thần kinh sọ chi phối (đặc biệt là dây số IX và X) và tổn thương trung tâm hô hấp vận mạch.

Trong thể tủy sống: liệt đai vai thường xuất hiện trước liệt cơ liên sườn và cơ hoành, dẫn tới giảm giãn nở của lồng ngực và giảm dung tích sống.

Trong thể hành não, các triệu chứng gồm song thị (ít gặp), yếu cơ mặt, khó nuốt, khó phát âm, giọng mũi, yếu cơ thang và cơ ức đòn chũm, khó nhai, không thể nuốt được kể cả nước bọt và trào ngược dịch qua mũi. Điều nguy hiểm đe dọa tính mạng của thể hành não là liệt hô hấp. Ngủ lịm, hôn mê vì thiếu oxy do giảm thông khí. Tăng huyết áp hoặc tụt huyết áp và nhịp tim nhanh có thể xảy ra. Co giật hiếm khi xuất hiện.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Số lượng bạch cấu trong máu ngoại vi bình thường hoặc tăng nhẹ. Áp lực dịch não tủy và protein bình thường hoặc tăng nhẹ. Glucose dịch não tủy không giảm. Số lượng bạch cầu thường dưới 500/µl và chủ yếu là lympho bào sau 24 giờ đầu. Dịch não tủy bình thường trong 5% số trường hợp. Virus có thể phân lập được từ nước rửa họng (ở giai đoạn sớm) và từ phân (ở cả giai đoạn sớm và muộn). Kháng thể (bằng phản ứng cố định bổ thể và phản ứng trung hòa) xuất hiện ở tuần đầu hoặc tuần thứ hai của bệnh.

Chẩn đoán phân biệt

Thể không có liệt thì giống với viêm màng não do virus đường tiêu hóa khác, phân biệt nhờ xét nghiệm huyết thanh. Viêm đa dây thần kinh nhiễm trùng cấp tính (hội chứng Guillain - Barré) và liệt do ve đốt, ban đầu có thể giống như bại liệt. Trong hội chứng guildain- barré, yếu cơ thường đối xứng và lan dần lên trong hầu hết các trườhg hợp, nhưng trong thể fisher rất giống với thể hành não, nhưng dịch não tủy thường có nồng độ protein cao nhưng số lượng tế bào bình thường.

Các biến chứng

Nhiễm trùng đường tiết niệu, xẹp phổi, viêm phổi, viêm cơ tim và phù phổi có thể xảy ra. Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.

Phòng bệnh

Khuyến cáo về phòng bệnh đã có sự thay đổi như là kết quả của thay đổi dịch tễ học của bệnh, sự chấm dứt của bệnh bại liệt ở Tây bán cầu và tiếp tục lo ngại về bệnh bại liệt do uống vaccin sống gây ra. Khuyên cáo hiện nay là dùng vaccin bất hoạt (Salk) cho hai lần đầu (dùng ở trẻ nhỏ vào tháng thứ 2 và tháng thứ 4), sau đó lần thứ 3 uống vaccin Sabin (vào tháng thứ 6), nếu không có ai trong gia đình giảm khả năng miễn dịch hoặc tiếp xúc gần gũi. Liều vaccin thứ 3 ở các nước đang phát triển là không cần thiết.

Vaccin sống tam giá đường uống (Sabin) dễ dùng, an toàn, hiệu quả cao trong việc tạo ra kháng thể tại đường tiêu hóa cũng như trong máu.

Tạo miễn dịch thông thường của người lớn ở Mỹ không được khuyến cáo vì tỷ lệ bệnh thấp. Tuy nhiên, ở những người lớn tiếp xúc với bệnh bại liệt hoặc sẽ đến vùng dịch bệnh địa phương mà trước đó chưa được miễn dịch phải dùng vaccin bất hoạt (Salk). Vaccin này cũng được dùng để tạo miễn dịch cho người bị suy giảm miễn dịch hoặc ức chế miễn dịch và các thành viên trong gia đình của họ.

Ở những nước đang phát triển, khoảng cách giữa những lần dùng OPV có thể kéo dài thêm trên một tháng (vì có thể tác động từ những yếu tố gây bệnh đường tiêu hóa khác). Thường tránh tiêm bắp sau khi uống vaccin bại liệt 1 tháng để phòng gây ra liệt do kích thích.

Điều trị

Nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường trong những ngày đầu của bệnh làm giảm tỷ lệ liệt. Phải khám cẩn thận để phát hiện tổn thương dây thần kinh sọ. Bệnh nhân được nằm thoải mái và tư thế bệnh nhân phải xoay trở được trên “giường dành cho bại liệt” (đệm chắc chắn, giá đặt chân, gối cao su mềm, túi cát, nẹp giường). Điều trị táo bón và bí đái (đặc biệt trong trường hợp liệt hai chân) là cần thiết. Bệnh nhân cần được điều trị tại khoa hồi sức nếu có yếu hoặc liệt hô hấp.

Tiên lượng

Trong giai đoạn sốt, liệt có thể xuất hiện và tiến triển. Yếu nhẹ các cơ nhỏ nhanh giảm hơn so với yếu nặng các cơ lớn. Thể hành não có tỷ lệ tử vong cao, lên tới 50%. Yếu các cơ khác lại có thể xuẩt hiện và tiến triển chậm nhiều năm sau khi hồi phục bệnh bại liệt cáp tính. Tổn thương này (hội chứng sau bại liệt biểu hiện các dấu hiệu mạn tính và mới của cắt dây thần kinh) không phải do nhiễm virus ban đầu mà do tăng rối loạn chức năng của các neron vận động còn lại.

Bài viết cùng chuyên mục

Những hội chứng do virus epstein barr

Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.

Một số bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio gây nên

V vulnificus và V alginolyticus đều không gây tiêu chảy, nhưng chủ yếu gây viêm mô tế bào dưới da và nhiễm khuẩn huyết tiên phát, Sau khi ăn sò có vi khuẩn hoặc tiếp xúc với nước biển.

Viêm não do arbovirus

Nguyên nhân hàng đầu của viêm não arbovirus là viêm não California và viêm não St. Louis. Mầm bệnh tồn tại trong tự nhiên là ở những động vật có vú nhỏ đặc trưng và một số loại chim.

Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae

Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.

Bệnh do vi rút

Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.

Bệnh phong

Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.

Bệnh do virus cự bào

Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.

Bệnh Lyme

Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.

Viêm niệu đạo và viêm cổ tử cung do Chlamydia

Điều trị thường theo giả định. Bạn tình của bệnh nhân cũng cần được điều trị. Cách điều trị hiệu quả là tetracyclin hoặc erythromycin 500mg uống ngày 4 lần.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao

Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.

Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis

Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.

Virus và viêm dạ dày ruột

Virus Norwalk và giống Norwalk chiếm khoảng 40% số các trường hợp ỉa chảy do virus đường tiêu hóa gây ra. Bệnh thường lây truyền qua con đường phân miệng.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục

Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.

Bệnh u hạt lympho hoa liễu

Ớ nam giới, tổn thương ban đầu dạng mụn phỏng hoặc nốt loét ở bộ phận sinh dục ngoài, nó biến đi nhanh chóng nên thường bị bỏ qua, không được bệnh nhân để ý.

Sốt do chuột cắn

Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.

Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR

Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.

Sốt phát ban do mò truyền

Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Ho gà

Các triệu chứng bệnh ho gà thường kéo dài 6 tuần và diễn biến theo 3 giai đoạn liên tiếp: giai đoạn viêm long ban đầu, có đặc điểm là khởi phát kín đáo.

Nhiễm khuẩn da và mô mềm do tụ cầu vàng

Viêm da do tụ cầu vàng thường khởi đầu quanh một hay nhiều ổ viêm nang lông, và có thể khu trú để tạo thành nhọt hoặc lan rộng đến vùng da lân cận và tới các mô sâu dưới da tạo thành ung nhọt lớn.

Bệnh do các loài vi khuẩn Bartonella

Bệnh u mạch lan toả do trực khuẩn, là một trong những bệnh quan trọng do vi khuẩn Bartonella gây ra, Sốt chiến hào là bệnh sốt tái phát do rận truyền, tự khỏi do B. quintana gây ra.

Bệnh do rickettsia

Tất cả các rickettsia đều bị ức chế bởi tetracyclin hoặc chloramphenicol. Tất cả các trường hợp nhiễm rickettsia giai đoạn đầu đáp ứng ở một vài mức độ với những thuốc này.

Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A

Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.