Hẹp động mạch phổi

2016-10-24 10:25 AM

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm cơ bản trong chẩn đoán

Không có triệu chứng ở những bệnh nhân có tổn thương nhẹ và vừa.

Những trường hợp nặng có thể có suy tim phải và gây ra chết đột ngột.

Tiếng thổi tâm thu tống máu âm độ cao nghe rõ nhất ở khoang liên sườn hai. Tiếng thứ hai chậm và mờ hoặc không nghe thấy. Thường có tiếng clăc tống máu thất phải đập mạnh.

Phì đại thất phải trên điện tâm đồ, dãn động mạch phổi trên phim Xquang. Siêu âm Doppler xác nhận chẩn đoán.

Nhận định chung

Hẹp van động mạch phổi hoặc hẹp phần phễu làm tăng sự cản trở dòng máu ra, tăng áp lực thất phải và giảm lượng máu lên phổi. Khi không có shunt kết hợp, độ bão hóà óxy máu động mạch sẽ bình thường nhưng hẹp nặng gây rà tím ngoại biên do cung lượng tim giảm, ngón tay dùi trống và đa hồng cầu có thể không xuất hiện trừ khi có thông liên nhĩ, cho phép luồng thông từ phải qua trái.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Trong những trường hợp nhẹ (chênh áp giữa động mạch phổi và thất phải < 30mmHg) thường không cá triệu chứng. Hẹp vừa và nặng (chênh áp từ 50 đến trên 80mmhg) có thể gây ra khó thở khi gắng sức, ngất, đau ngực, và cuối cùng là suy thất phải.

Có một chỗ nhô lên rõ rệt ở cạnh xương ức. Một tếng thổi tâm thu to, thô ráp và tiếng rung miu nghe thấy ở khoang liên sườn 2 - 3 trái cạnh ức. Tiếng thổi tâm thu ở khoang liên sườn 3 - 4 trong trường hợp hẹp phần phễu. Tiếng thứ hai bị che khuất bởi tiếng thổi tâm thu trong những trường hợp nặng. Hợp phần van động mạch phổi của tiếng thứ hai thường yếu, chậm hoặc mất. Cả hai hợp phần đều có thể nghe thấy ở những ca nhẹ. Tiếng thứ tư của tim phải và một sóng a rõ rệt ở mạch tĩnh mạch có trong những trường hợp nặng.

Điện tâm đồ và Xquang ngực

Cho thấy trục phải hoặc dày thất phải, sóng P nhọn chứng tỏ tăng gánh nhĩ phải. Kích thước tim có thể binh thường trên phim X quang ngực, hoặc có thể thất phải to, và nhĩ phải to hoặc tim to toàn bộ, tùy thuộc vào mức độ nặng của bệnh. Thường có dãn sau chỗ hẹp của động mạch phổi chính hoặc động mạch phổi trái. Tình trạng mạch phổi bình thường hoặc giảm.

Các thăm dò chẩn đoán

Siêu âm thường cho thấy những bất thường về giải phẫu và đánh giá được kích thước và chức năng thất phải. Siêu âm Doppler có thể ước lượng một cách chính xác sự chênh áp. Các dữ liệu của siêu âm thường được xác nhận bằng kết quả thông tim.

Tiên lượng và điều trị

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi. Hẹp vừa có thể không có triệu chứng từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành nhưng các triệu chứng sẽ tăng lên khi bệnh nhân trở về già.

Những bệnh nhân có triệu chứng hoặc những bệnh nhân có dấu hiệu của dầy thất phải và chênh áp lúc nghỉ ngơi trên 75 - 80mmHg thì trong hầu hết các trường hợp cần phải sửa chữa. Nong van bằng bóng qua da đã chứng tỏ thành công và thường là phương pháp điều trị được lựa chọn. Phẫu thuật có thể được thực hiện với tỷ lệ tử vong 2 - 4% và trong hầu hết các trường hợp kết quả lâu dài rất tốt.

Bài viết cùng chuyên mục

Thông liên thất

Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.

Ngoại tâm thu nhĩ

Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Cấp cứu tăng huyết áp

Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Hở van hai lá

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Phù phổi cấp

Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Điều trị tăng Cholesterol LDL

Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Ngoại tâm thu thất

Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.

Hẹp eo động mạch chủ

Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Còn ống động mạch

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.

Rung nhĩ và cuồng động nhĩ

Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.