- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa
- Không phóng noãn liên tục
Không phóng noãn liên tục
Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những yếu tố cần thiết trong chẩn đoán
Không phóng noãn mạn tính.
Vô sinh.
Testosteron huyết tương và giá trị LH tăng vàtỷ lệ FSH/LH đảo ngược.
Rậm lông (70% bệnh nhân).
Nhận xét chung
Hội chứng buồng trứng đa nang là sự rối loạn nội tiết hay gặp chiếm 2 - 5% phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ. Thương tổn nguyên thủy chưa được biết rõ. Những bệnh nhân này có tình trạng estrogen, androgen và mức LH cao tương đối hằng định hơn là tình trạng dao động thấy được ở những phụ nữ có phóng noãn. Nồng độ estron tăng do béo bệu (chuyển đổi androgen của buồng trứng và thượng thận thành estron trong mỡ của cơ thể) hoặc do sự dư thừa androgen thấy được ở một số phụ nữ có trọng lượng bình thường. Người ta nghĩ rằng nồng độ estron cao làm giảm chế tiết FSH tuyến yên và tăng chế tiết tương đối LH. Sự kích thích LH liên tục của buồng trứng dẫn đến không phóng noãn, nhiều nang và quá sản tế bào nang noãn kèm theo tăng sản sinh androgen. Buồng trứng đa nang có vỏ dầy, màu trắng óng ánh như xà cừ và có thể không to.
Những phụ nữ có hội chứng Cushing, quá sản tuyến thượng thận bẩm sinh và những khối u tuyến thượng thận chế tiết androgen cũng có nồng độ androgen tuần hoàn cao và không phóng noãn kèm theo buồng trứng đa nang.
Phát hiện lâm sàng
Hội chứng buồng trứng đa nang được biểu hiện bằng rậm lông (70% các trường hợp), béo phệ (40%), nam tính hóa (20%). Năm mươi phần trăm bệnh nhân mất kinh, 30% chảy máu tử cung bất thường và 20% kinh nguyệt bình thường. Thêm vào đó, các bệnh nhân có biểu hiện kháng insulin và tăng insulin huyết khi được truyền glucose. Nhìn chung các bệnh nhân thường bị vô sinh, mặc dù đôi khi họ có thể có phóng noãn. Họ bị tăng nguy cơ kéo dài đối với ung thư vú và niêm mạc tử cung do có sự chế tiết estrogen không bị chống kháng (bởi progesteron).
Chẩn đoán phân biệt
Hiện tượng không phóng noãn ở tuổi sinh đẻ cũng có thể do: (1) mãn kinh sớm (nồng độ FSH và LH cao), (2) giảm thể trọng nhanh chóng hoặc cố gắng thể lực quá mức (nồng độ FSH và LH bình thường đối với tuổi), (3) uống thuốc tránh thai không liên tục (không phóng noãn trong 6 tháng hoặc hơn đôi khi xảy ra), (4) u tuyến yên với prolactin cao (tiết sữa có thể hoặc không), (5) cường hoặc thiểu năng giáp trạng. Luôn luôn kiểm tra nồng độ FSH, LH, prolactin, TSH, testosteron và dehydroepiandrosteron sunfat (DHEAS) khi mất kinh kéo dài 6 tháng hoặc hơn mà không chẩn đoán được. Một đợt 10 ngày progestin (ví dụ, medroxyprogesteron acetat 10mg/ngày) sẽ gây chảy máu nếu như nồng độ estrogen cao. Điều này sẽ giúp cho chẩn đoán và ngăn ngừa quá sản niêm mạc tử cung, ở những bệnh nhân trên 35 tuổi không phóng noãn kéo dài nên thận trọng kiểm tra ung thư do kích thích estrogen bằng chụp tuyến vu và hút niêm mạc tử cung.
Điều trị
Ở những bệnh nhân béo bệu có buồng trứng đa nang, điều trị bằng cách làm giảm cân thường có hiệu quả, giảm mỡ cơ thể sẽ làm giảm thấp sự chuyển đổi androgen thành estron và liệu pháp giúp cho phục hồi sự phóng noãn.
Nếu bệnh nhân mong muốn có thai, clomiphen hoặc các thuốc khác có thể được sử dụng để kích thích phóng noãn. Sự phóng noãn cũng có thể được phục hồi ở một bệnh nhân bằng dexamethason 0,5mg mỗi tối.
Cắt góc buồng trứng thường đạt kết quả phục hồi sự phóng noãn và khả năng sinh đẻ, mặc dù hiện nay liệu pháp này ít được sử dụng hơn so với các phương pháp điều trị nội khoa hiện có.
Nếu bệnh nhân không muốn có thai thì cho dùng medroxyprogesteron acetat 10 mg/ngày trong 10 ngày đầu của tháng. Điều đó sẽ đảm bảo bong niêm mạc tử cung đều đặn vài hiện tượng quá sản sẽ không xảy ra. Nếu muốn tránh thai, thì viên thuốc tránh thai phối hợp liều thấp có thể sử dụng được. Điều này cũng có ích khống chế rậm lông, điều trị như thế phải được kéo dài 6 - 12 tháng trong trường hợp chưa thấy kết quả. Chứng rậm lông có thể được xử lý bằng cách nhổ lông và điện phân. Dexamethason 0,5mg mỗi tối là có ích với những phụ nữ tăng tiết androgen thượng thận. Nếu như chứng rậm lông nghiêm trọng, một số bệnh nhân sẽ chọn cắt tử cung và hai phần phụ, sau đấy dùng liệu pháp estrogen thay thế. Spironolacton, một tác nhân đối kháng aldosteron cũng có ích đối với chứng rậm lông với liều 25mg ba đến bốn lần mỗi ngày.