- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhiễm giun anisakia (Anisakiasis) là bệnh do các ấu trùng giun tròn anisakia xâm nhập vào thành dạ dày hoặc thành ruột gây nên. Trong thể cấp, bệnh có thể biểu hiện như bụng ngoại khoa; trong thể mạn tính, các triệu chứng nhẹ có thể kéo dài vài tuần cho tới vài năm.
Vật chủ cuối cùng của giun anisakia là các loại động vật có vú ở biển bao gồm cá voi, hải cẩu và cá heo. Trứng giun thải ra môi trường theo phân được các động vật giáp xác ăn vào; phát triển thành ấu trùng có khả năng gây bệnh cho mực, cá thu, cá mòi, cá tuyết, cá bơn cá đá, cá hồi, cá ngừ và các loại cá biển khác. Trong cơ thể cá, với tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên tới 80%, các ấu trùng giun đi vào các cơ và lây truyền từ cá sang cá theo dây chuyền thức ăn, cuối cùng gặp được động vật có vú ở biển và phát triển sang giai đoạn trưởng thành.
Người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng của giun trong cá biển hoặc mực khi ăn ở dạng sống, nấu chưa chín, muối, hoặc làm gỏi. Các ấu trùng giải phóng ra trong dạ dày, bám vào hoặc rúc một phần vào niêm mạc dạ dày hoặc ruột (thường ở ruột non, ít khi ở đại tràng), gây loét tại chỗ, phù nề, và hình thành các u hạt từ bạch cầu ưa acid; cuối cùng, các cá thể giun chết. Đôi khi ho và khạc giun ra ngoài hoặc giun xuyên thủng thành ruột, đi vào khoang bụng và di trú. Tuy nhiên, phần lớn ấu trùng có lẽ không trụ lại được trong đường tiêu hóa của người để gây bệnh và thải ra theo phân. Mặc dù các ấu trùng đôi khi phát triển đến giai đoạn trưởng thành, giun cái có khả năng sinh sản không thấy có ở người.
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác. Các món ăn sống ở địa phương như sashimi ở Nhật Bản, gỏi cá mòi ở Hà Lan, và món seviche ở Châu Mỹ Latin là các cách truyền bệnh.
Triệu chứng và dấu hiệu
Đa số các trường hợp bệnh cấp là nhiễm anisakia dạ dày. Đôi khi, nhiễm bệnh cấp diễn biến thành mạn tính.
Nhiễm giun Anisakia ở dạ dày cấp
Trong vòng vài giờ kể từ khi nuốt phải ấu trùng giun, bệnh nhân có cảm giác buồn nôn, nôn và đau vùng thượng vị mỗi lúc một nặng. Các phản ứng dị ứng, bao gồm cả một vài trường hợp sốc phản vệ có thể xuất hiện, đau ngực và nôn ra máu hiếm gặp.
Nhiễm giun Anisakiasis ở ruột cấp tính
Trong vống 1- 7 ngày, đau quặn xuất hiện ở phần bụng dưới, thường khu trú ở vùng hồi manh tràng, đi kèm với ỉa chảy, buồn nôn, nôn, trướng bụng lan tỏa và sốt nhẹ.
Bệnh mạn tính
Trong vài tuần tới vài năm, các triệu chứrig có thể tiếp diễn giống như loét dạ dầy, viêm dạ dày, u dạ dày, tắc ruột, hoặc viêm ruột.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Xét nghiệm phân có thể thấy máu vi thể nhưng không có trứng giun. Tăng nhẹ số lượng bạch cầu và bạch cầu ái toan có thể xuất hiện. Các xét nghiệm huyết thanh ELISA và RAST có thể có ích nhưng không tin cậy trong thể bệnh mạn.
Chẩn đoán hình ảnh và nội soi
Trong bệnh cấp tính, soi dạ dày được ưu tiên do đôi khi có thể nhìn thấy các ấu trùng và loại bỏ ra khỏi dạ dày. Chụp X quang dạ dày có thể thấy ổ loét khu trú có phù nề, thành dày nham nhở, giảm nhu động, và cứng nhắc. Kỹ thuật chụp cản quang đôi khi có thể cho hình ảnh ấu trùng dạng sợi dây. Chụp ruột non có thể thấy niêm mạc dầy và các đoạn co hẹp với khoảng giãn ở trên. Siêu âm các tổn thương dạ dày và ruột cũng có thể có ích.
Trong giai đoạn mạn tính, chụp X quang và soi dạ dày - nhưng không áp dụng cho ruột - có thể có ích. Chẩn đoán thường chỉ được xác định khi phẫu thuật ổ bụng và loại bỏ giun gây bệnh.
Phòng ngừa và điều trị
Phòng bệnh bằng cách tránh ăn mực hoặc cá biển còn sống hoặc chưa nấu chín, đặc biệt là cá hồi, cá đá, cá mòi và cá thu; nên loại bỏ sớm nội tạng cá. Các ấu trùng trong cá dưới dạng giun xoắn, hoặc cuộn chặt, không màu trong các ổ tròn 3 mm, hoặc các ấu trùng màu đỏ tía hoặc tăng sắc tố nằm tự do trong cơ hoặc nội tạng, rất khó nhìn. Các ấu trùng bị chết ở nhiệt độ khoảng 60°C hoặc làm lạnh đến - 20°C trong 24 giờ (một số tác giả khuyên 7 ngày). Các biện pháp hun khói với nhiệt độ không lên đến 60°C ngâm trong giấm, và ướp muối, không tin cậy được.
Bệnh không có thuốc điều trị. Trừ khi các ấu trùng có thể loại bỏ bằng soi dạ dày hoặc đại tràng ông mềm, điều trị các tổn thương cấp tính và mạn tính chỉ giới hạn ở các biện pháp triệu chứng; các triệu chứng nói chung tiến triển trong 1- 2 tuần. Phẫu thuật lấy giun có thể cần thiết trong những trường hợp nặng.
Bài viết cùng chuyên mục
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Bệnh do Trypanosoma châu mỹ
Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.
Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara
Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Bệnh giun Gnathostoma
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh nang chùm
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.
Bệnh giun lươn
Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.