Bệnh giun kim

2016-05-28 09:24 AM

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Ngứa hậu môn và âm hộ vào ban đêm, mất ngủ, bực dọc, bồn chồn.

Các triệu chứng tiêu hóa không rõ rệt.

Trứng giun phát hiện qua xét nghiệm bằng cellulose; có thể quan sát, được giun trên da quanh hậu môn hoặc trong phân.

Nhận định chung

Giun kim Enterobius vermicuíaris (8 - 13 x 0,5 mm) phân bố trên toàn thế giới. Người là vật chủ duy nhất của giun, có thể mang từ vài con đến vài trăm con. Trẻ nhỏ bị bệnh phổ biến hơn người lớn, và nhiều trường hợp nhiễm bệnh xuất hiện trong gia đình và các cơ sở có trẻ nhỏ. Tỷ lệ mắc bệnh cao được ghi nhận ở những người đồng tính luyến ái nam, nhưng nhiễm giun kim không phải là bệnh cơ hội trong HIV. Một loài giun kim khác, Enterobius gregorii, được mô tả ở Anh.

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn. Trứng trở nên có khả năng lây nhiễm sau vài giờ và có thể sau đó lây truyền cho người khác hoặc tự lây lại nếu được mang tới miệng qua thức ăn, nước uống, đồ vật, hoặc tay bị nhiễm. Sau khi được nuốt vào, trứng nở trong tá tràng, và ấu trùng giun di trú xuống manh tràng. Nhiễm giun ngược dòng đôi khi xuất hiện, khi trứng nở trên da kề hậu môn, và ấu trùng di trú qua hậu môn vào đại trảng. Quá trình phát triển từ trứng nuốt vào cơ thể đến khi giun cái trưởng thành và đẻ trứng mất khoảng 3 - 4 tuần. Trứng khả năng sống trong 2 - 3 tuần sau khi ra khỏi cơ thể người. Thời gian sống của giun kéo dài 30 - 45 ngày.

Triệu chứng và dấu hiệu

Nhiều bệnh nhân không có biểu hiện bệnh. Triệu chứng thường gặp và quan trọng nhất là ngứa vùng hậu môn (nhất là về ban đêm), do giun cái hoặc trứng gây ra. Mất ngủ, bực dọc, đái dầm, và bồn chồn là các triệu chứng thường gặp, nhất là ở trẻ em. Nhiều triệu chứng tiêu hóa nhẹ cũng được coi là do giun kim gây ra, nhưng mốì liên quàn này khó có thể khẳng định. Về ban đêm, đôi khi có thể thấy giun ở gần hậu môn. Việc gãi vùng quanh hậu môn có thể gây xước da và viêm da. Người lớn đôi khi có cảm giác giun bò ở vùng hậu môn. Đôi khi, giun di trú - bao gồm cả di trú vào đường sinh dục của phụ nữ hoặc niệu đạo - gây nên viêm nhiễm vị trí ngoại lai (viêm âm hộ - âm đạo, viêm túi thừa ruột, viêm ruột thừa, viêm bàng quang) hoặc các phản ứng tạo u hạt (đại tràng, đường sinh dục, màng bụng, và một số nơi khác). Loét đại tràng và viêm đại tràng tăng bạch cầu ái toan đã được thông báo.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Chẩn đoán dựa trên việc tìm thấy trứng giun trên da quanh hậu môn (trứng ít khi tìm thấy khi xét nghiệm phân). Phương pháp tin cậy nhất là dán một miếng băng cellulose mềm (như Scotch tape) vào vùng da quanh hậu môn, sau đó trải dải băng lên lam kính để soi hiển vi độ phóng đại thấp; toluen được dùng để làm trong lam. Ba xét nghiệm như vậy làm trong ba buổi sáng liên tiếp trước khi tắm hoặc đi ngòài sẽ xác định được chẩn đoán trong khoảng 90% số trường hợp. Trước khi loại trừ chẩn đoán, cần làm năm đến bẩy xét nghiệm như vậy. Xét nghiệm vùng quanh hậu môn về ban đêm hoặc xem phân đại thể có thể phát hiện ra giun trưởng thành; cần để giun này trong môi trường bảo quản, cồn, hoặc nước muối để xét nghiệm ở labô. Đôi khi có thể thấy giun khi soi hậu môn. Bạch cầu ái toan ít khi tăng;

Chẩn đoán phân biệt

Ngứa do giun kim cần được phân biệt với các loại ngứa tương tự do nhiễm nấm, dị ứng, trĩ, viêm trực tràng, nứt trực tràng, giun lươn, và các bệnh khác.

Điều trị

Các biện pháp chung

Bệnh nhân có triệu chứng cần được điều trị, và trong một số trường hợp tất cả các thành viên trong gia đình bệnh nhân phải được điều trị cùng một lúc, do mỗi ca bệnh có biểu hiện lâm sàng thường đi củng với vài ca không triệu chứng. Tuy nhiên, nói chung không cần điều trị tất cả các ca không triệu chứng. Rửa kỹ tay với xà phòng và nước sau khi đi ngoài và rửa tay trước khi ăn rất quan trọng. Móng tay phải được cắt ngắn và giữ sạch sẽ, tránh gãi vụng quanh hậu môn. Giặt đồ trải giường thông thường cũng có tác dụng diệt trứng giun; một số tác giả khuyên giặt hàng ngày.

Các biện pháp đặc hiệu

Điều trị các thuốc sau đây cần được nhắc lại sau 2 và 4 tuần. Albendazol, mebendazol, và pyrantel pamoat là các thuốc lựa chọn, có thể uống trong bữa ăn hoặc vào thời gian bất kỳ. Không sử dụng albendazol và mebendazol cho phụ nữ có thai.

Albendazol có ở Hoa Kỳ mặc dù thuốc không được thông qua cho chỉ định điều trị giun kim. Albendazol có thể đạt tỷ lệ khỏi 100% khi cho liều duy nhất 400 mg. Đau bụng và ỉa chảy hiếm khi xảy ra.

Mebendazol liều duy nhất 100 mg cũng có hiệu quả cao. Cần nhai thuốc để đạt hiệu quả tốt nhất. Các tác dụng phụ ở đường tiêu hóa ít xảy ra.

Pyrantel pamoat có hiệu quả cao, với tỷ lệ chứa khỏi trên 95%. Thuốc được dùng ở liều 10 mg (gốc)/kg (cao nhất 1g). Các tác dụng phụ ít khi xảy ra bao gồm nôn, ỉa chảy, đau đầu, chóng mặt, và buồn ngủ. Ở Hoa Kỳ, pyrantel được bán tự do để bệnh nhân nhiễm giun kim tự điều trị.

Các thuốc khác piperazin, mặc dù có tác dụng, không được khuyên dùng do điều trị phải kéo dài 1 tuần. Thiabendazol không được khuyến cáo do hay gây các tác dụng phụ, đôi khi nghiêm trọng, có thể dẫn .tới tử vong.

Tiên lượng

Mặc dủ gây khó chịu, nhiễm giun kim là lành tính. Bệnh dễ điều trị khỏi bằng một trong vài thuốc có niệu quả. Tái nhiễm bệnh thường gặp, nhất là ở trẻ em, do tiếp tục phơi nhiễm ngoài gia đình.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Bệnh giun lươn

Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis

Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Nhiễm giun anisakia

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Bệnh nang chùm

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Nhiễm sán dây

Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.