Bệnh do Trypanosoma châu phi

2016-05-20 06:17 PM

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Tiền sử phơi nhiễm với ruồi tsetse (glossina) có vết đốt.

Giai đoạn máu - bạch huyết (thường không có hoặc không được nhận biết trong nhiễm Tb gambiense):

Sốt thất thường, đau đầu, đau khớp, mệt mỏi, ngứa, ban sẩn ngoài da, phù.

Sưng hạch lympho sau cơ ức đòn chũm hoặc toàn thân, gan lách to.

Thiếu máu, sút cân.

Trypanosoma trong máu hoặc dịch hút từ hạch lympho; xét nghiệm huyết thanh dương tính.

Giai đoạn viêm não - màng não:

Mất ngủ, rối loạn vận động và cảm giác, phản xạ bất thường, ngủ gà tới hôn mê.

Có Trypanosoma và tăng bạch cầu và protein trong dịch não tủy.

Nhận định chung

Bệnh do Trypanosoma châu Phi do Trypanosoma brucei rhodesiense và Trypanosoma brucei gambiense gây nên, cả hai đều là roi huyết trùng. Ký sinh trùng được truyền qua vết cắn của ruồi tsetse (loài Glossina), loài ruồi sinh sôi ở những vùng có bóng mát dọc các dòng sông và dòng suối. Bệnh dịch ở người xuất hiện ở nhiều vùng tại châu Phi nhiệt đới từ Nam Sahara tới khoảng vĩ tuyến 20° Nam. Nhiễm Tb gambiense xảy ra ở vùng đồng cỏ ẩm ướt hạ Sahara và các vùng rừng ven sống Trung và Tây Phi cho tới phía Đông của Rift valley. Tb rhodesiense gây bệnh ở phía đông Rift valley trong vùng đồng cỏ ở Đông và Đông Nam châu Phi, và dọc bờ hồ Victoria. Ước tính mỗi năm có 10000 - 20000 ca mắc mới và 5000 ca tử vong.

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense, nhưng những thông tin mới đây cho thấy còn có ổ bệnh động vật khác.

Triệu chứng và dấu hiệu

Nhiễm Tb rhodesiense trải qua ba giai đoạn sau, là bệnh ác tính hơn, và bệnh nhân không điều trị sẽ tử vong sau vài tuần tới một năm. Tuy nhiên, trong nhiễm Tb gambiense, săng không xuất hiện và giai đoạn máu - bạch huyết thường không có hoặc không được nhận biết, khi các triệu chứng rõ sau vài tuần tới vài năm thì khởi đầu thường nhẹ đến nỗi chính bệnh nhân cũng không nhận thấy.

Săng (chancre) của trypanosoma. Đây là phản ứng viêm tại chỗ kèm ngứa và đau (3 - 10cm) có viêm hạch vùng, xuất hiện khoảng 48 giờ sau khi ruồi tsetse đốt và kéo dài 2 - 4 tuần.

Giai đoạn máu - bạch huyết. Giai đoạn này thường bắt đầu 3 - 10 ngày sau với sự xâm nhập vào máu và hệ liên võng nội mô. Sốt cao, đau đầu nặng, đau khớp, và mệt mỏi tái xuất hiện sau các khoảng thời gian khác nhau tương ứng với các làn sóng ký sinh trùng vào máu. Giữa các thời kỳ sốt là các giai đoạn không triệu chứng kéo dài tới hai tuần. Ban thoảng qua có thể xuất hiện, thường ngứa và nổi sẩn hoặc dạng dát sẩn. Thăm khám phát hiện gan và lách hơi to và phù (ngoại vi, tràn dịch màng phổi, cổ trướng...). Các hạch lympho sưng to, chắc, không đau, xuất hiện ở 75% số bệnh nhân. Trong nhiễm Tb gambiense, chỉ có nhóm hạch sau cổ có thể to (dấu winterbottom). Cùng với sự tiến triển của bệnh là sự tăng tiến của sút cân, suy nhược. Các dấu hiệu tổn thương cơ tim có thể xuất hiện sớm trong nhiễm Tb rhodesiense và bệnh nhân có thể bị viêm cơ tim trước khi các triệu chứng xâm nhập hệ thần kinh trung ương xuất hiện.

Giai đoạn viêm não - màng não. Giai đoạn này xuất hiện trong vòng vài tuần hoặc vài tháng sau khởi phát của nhiễm Tb rhodesiense, nhưng trong bệnh ngủ Gambia, giai đoạn này phát triển âm thầm hơn, bắt đầu từ 6 tháng tới vài năm sau khởi phát. Mất ngủ, chán ăn, thay đổi tính tình, mệt nhọc và đau đầu những triệu chứng đầu tiên. Một loạt các rối loạn vận động và trương lực có thể xuất hiện, bao gồm run giật và các rối loạn phát âm, điều hòa vận động và phản xạ, trạng thái ngủ gà xuất hiện muộn. Bệnh nhân trở nên suy kiệt nặng và cuối cùng đi vào hôn mê. Tử vong do nhiễm trùng thứ phát.

Dấu hiệu cận lâm sàng

Để xác định chẩn đoán cần soi tìm ký sinh trùng còn chuyển động trong các lam ướt và sau nhuộm Giemsa các bệnh phẩm lấy từ vết cắn (ít thấy), chọc hút hạch lympho, tủy xương, hoặc dịch não tủy. Do số lượng trypanosoma trong máu dao động và thường không thể phát hiện được 3 trong 5 ngày, các mẫu máu phải được xét nghiệm hàng ngày, trong 15 ngày, bao gồm cả sau khi cô đặc bằng ly tâm hematocrit vi thể 10 - 15 ml máu đã chống đông bằng heparin (trypanosoma cô đặc trong môi trường đệm). Các xét nghiệm chẩn đoán máu khác là kỹ thuật định lượng trong môi trường đệm, cấy vào màng bụng cho động vật gặm nhâm thí nghiệm (phương pháp nhạy cảm nhất, nhưng chỉ hiệu quả với Tb rhodesiense), nuôi cấy, vi lọc màng millipore, và trao đổi anion qua màng DEAE- cellulose. Chỉ nên chọn các hạch lympho còn mềm (chưa xơ hóa) để hút bệnh phẩm; các hạch này cần được xoa bóp nhẹ nhàng. Xét nghiệm dịch não tủy thường phát hiện tăng bạch cầu lympho và protein; ly tâm dịch não tủy để phát hiện ký sinh trùng cần thực hiện nhanh và làm hai lần (nhạy cảm hơn khi ít nhất hai lần so với ly tâm một lần). Cần lấy dịch não tủy cấy vào động vật thí nghiệm và nuôi cấy trên môi trường.

Hiện có các xét nghiệm huyết thanh học tìm kháng thể IgM và IgG. IgM trong máu bắt đầu dương tính khoảng 12 ngày sau khởi phát bệnh và có thể đạt 10 - 20 lần nồng độ bình thường. Tuy nhiên, các mức độ IgM bình thường hoặc thấp không loại trừ được bệnh, do các hiệu giá có thể dao động trong những giai đoạn ngắn, khi kháng nguyên quá nhiều có thể gây nên giảm hiệu giá, thậm chí xuống dưới mức có thể phát hiện được. Trong giai đoạn bệnh hệ thần kinh trung ương muộn, mặc dù cả kháng thể và ký sinh trùng trong máu có thể xuống dưới mức phát hiện được, thì các xét nghiệm dịch não tủy có thể trở nên hữu ích. Ở bất cứ giai đoạn nào của bệnh, tăng IgM trong dịch não tủy có ý nghĩa chẩn đoán cho nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, ngoại trừ kết quả âm tính giả đã từng được báo cáo. Ngoài ra còn có các xét nghiệm chẩn đoán miễn dịch như ELISA và miễn dịch huỳnh quang; xét nghiệm tìm kháng nguyên tự do hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu.

Các dấu hiệu khác bao gồm thiếu máu, tăng tốc độ lắng máu, giảm tiểu cầu, giảm protein huyết thanh toàn phần, và tăng globulin huyết thanh.

Chẩn đoán phân biệt

Nhiễm trypanosoma có thể nhầm lẫn với một số bệnh khác như sốt rét, cúm, viêm phổi, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng, ung thư máu, u lympho, viêm não do arbovirus, u não, và một số bệnh tâm thần. Xét nghiệm huyết thanh học giang mai có thể dương tính giả trong bệnh do trypanosoma.

Điều trị

Do phần lớn các thuốc sử dụng đều có độc tính cao (tỷ lệ tử vong trong điều trị có thể lên tới 5 - 10%), xét nghiệm miễn dịch đơn thuần không đủ để chẩn đoán; cần phát hiện ký sinh trùng.

Giai đoạn máu - bạch huyết

Các thuốc lựa chọn cho cả hai loại ký sinh trùng là suramin tĩnh mạch [100 - 200 mg (liều thử nghiệm), sau đó lg vào các ngày 1,3, 7, 14, 21] hoặc eflornithin tĩnh mạch (400 mg/kg/ngày, chia 4 lẩn, tiếp tục với liều 300 mg/kg/ngày uống trong 3 - 4 tuần). Thuốc thay thế đối với T gambiense là pentamidin (4mg/ kg/ ngày tiêm bắp trong 10 ngày). Suramin và pentamidin thường gây các phản ứng phụ nặng nề. Điều trị thay thế thứ ba cho cả hai loại ký sinh trùng - nhưng không được sử dụng như lựa chọn đầu tiên do độc tính cao là melarsoprol.

Giai đoạn bệnh muộn có tổn thương hệ thần kinh trung ương

Các thuốc lựa chọn cho cả hai ký sinh trùng là melarsoprol tĩnh mạch (2 - 3,6 mg/kg/ngày, trong 3 ngày; sau 1 tuần, 3,6 mg/kg/ngày trong 3 ngày; nhắc lại sau 10 - 21 ngày); hoặc eílornithin (như trên). Điều trị thay thế đối với Tb gambiense là tryparsamid tĩnh mạch, 30 mg/kg (cao nhất 2g), 5 ngày một lần, cho 12 lần tiêm, cộng với suramin tĩnh mạch, 100 - 200 mg (liều thử nghiệm) nối tiếp bằng liều 10 mg/kg, 5 ngày một lần, cho 12 lần tiêm; có thể nhắc lại điều trị sau một tháng.

Suramin và pentamidin, do không thấm qua hàng rào máu - não, nên không thể sử dụng khi có bệnh ở hệ thần kinh trung ương. Melarsoprol gây bệnh não phản ứng ở gần 5% bệnh nhân; các corticosteroid đã được một số tác giả sử dụng để ngăn ngừa phản ứng này. Eflornithin, được cho phép sử dụng ở Hoa Kỳ nhưng chỉ có qua Tổ chức y tế thế giới, có hiệu quả cao và độc tính nhẹ trong các giai đoạn sớm và muộn của nhiễm Tb gambiense, nhưng hiệu quả của thuốc trong nhiễm Tb rhodesiense chưa ổn định. Ở Hoa Kỳ, suramin và melarsoprol chỉ có qua phòng dược phẩm, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật, Atlanta, GA 30333. Điện thoại: 404- 639- 3670; số 404- 639- 2888 vào các buổi tối, ngày nghỉ cuối tuần và các ngày lễ.

Để chắc chắn phát hiện giai đoạn viêm não, cần làm xét nghiệm dịch não tủy lúc ban đầu và nhắc lại xét nghiệm sau những khoảng thời gian nhất định, 3 tháng sau điều trị, và sau đó 6 tháng một lần trong 2 năm.

Phòng bệnh

Phòng bệnh cá nhân ở vùng dịch tễ phải bao gồm mặc áo dài tay và quần dài, tránh mặc quần áo sẫm màu và nằm màn khi ngủ. Kem xua côn trùng không có tác dụng. Pentamidin được sử dụng trong hóa dự phòng (còn gây tranh cãi) chỉ cho loại Gambia. Trong nhiễm Tb rhodesiense, pentamidin có thể làm lu mờ các triệu chứng sớm, dẫn đến việc nhận biết bệnh quá muộn, qua giai đoạn điều trị có kết quả. Pentamidin thải trừ chậm; vì vậy, một mũi tiêm bắp (4 mg/kg, nhiều nhất 300 mg) có tác dụng bảo vệ trong 3 - 6 tháng. Thuốc có khả năng gây độc cao và chỉ nên sử dụng cho những người có nguy cơ cao (như những người phơi nhiễm liên tục và nhiều với ruồi tsetse ở những vùng chắc chắn có bệnh Gambia lây truyền). Tiến hành xét nghiệm huyết thanh học 6 tháng một lần trong khi phơi nhiễm và 3 năm sau đó là biện pháp chắc chắn nhất để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm.

Tiên lượng

Phần lớn bệnh nhân, ngay cả bệnh nhân ở giai đoạn bệnh tiến triển đều khỏi sau điều trị. Các đợt tái phát là thường gặp (khoảng 2%). Khi điều trị được bắt đầu muộn, tổn thương não không hồi phục hoặc tử vong thường gặp. Hầu hết bệnh nhân nhiễm trypanosoma Châu Phi sẽ chết nếu không được điều trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Bệnh giun lươn

Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis

Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Nhiễm giun anisakia

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Bệnh nang chùm

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Nhiễm sán dây

Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.