- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Angiostrongylus cantonensis, một loại giun tròn của chuột, là tác nhân gây viêm não - màng não tăng bạch cầu ái toan. Bệnh được thông báo từ Hawaii và các đảo Thái Bình Dương khác, Đông Nam Á, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Australia, Ai Cập, Madagascar, Nigeria, Bombay, CuBa, Puerto Rico, Bahamas, Brazil, và New Orleans.
Người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng gây bệnh trong các thức ăn chưa nấu - các loài ốc trung gian truyền bệnh (các loại sên) hòặc các vật chủ trung gian cơ giới đã ăn các loài ốc (cua, tôm, cá). Lá rau có nhiễm các loài ốc nhỏ hoặc nước nhớt thải của ốc cũng có thể là nguồn bệnh, kể cả ngón tay khi nhặt ốc và chuẩn bị ốc để nấu ốc nhiễm bệnh khi ăn phải các ấu trùng thải theo phân của chuột - vật chủ cuối củng của giun.
Thời kỳ ủ bệnh của người kéo dài 1- 3 tuần. Ở các ấu trùng giun (0,5 x 0,025 mm) xâm nhập hệ thần kinh trung ương, và khi di trú gây ra các tổn thương nặng ở tổ chức não; khi giun chết phản ứng viêm tại chỗ xuất hiện.
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là các triệu chứng viêm não - màng não, bao gồm đau đầu dữ dội, sốt, cổ cứng, buồn nôn và nôn, và nhiều dấu hiệu thần kinh, đặc biệt là bệnh lý các dây thần kinh sọ não không đối xứng nhất thời. Các cá thể giun trong tủy sống có thể gây rối loạn cảm giác ở thân hoặc các chi, giun cũng được tìm thấy trong mắt.
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy. Tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi cùng với tăng nhẹ số lượng bạch cầu thường gặp. Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật có một loại xét nghiệm huyết thanh học để chẩn đoán CT Scan và MRI có thể cho thấy tổn thương hệ thần kinh trung ương.
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm màng não do lao, coccidioidium hoặc viêm màng não nước trong, giang mai; u lympho; giun gai, ấu trùng sán lợn, sán lá phổi, nhiễm echinococcus, và sán máng do Schistosoma japonicum.
Bệnh chưa có điều trị đặc hiệu; tuy nhiên, có thể điều trị thử bằng các thuốc levamisol, albendazol, thiabendazol (25 mg/kg, ba lần /ngày; trong 3 ngày); mebendazol (100 mg hai lần một ngày, trong 5 ngày), hoặc ivermectin. Theo lý thuyết, ấu trùng chết có thể làm các phản ứng viêm của hệ thần kinh trung ương nặng thêm. Điều trị triệu chứng bằng thuốc giảm đau và corticosteroid có thể cần thiết. Bệnh thường kéo dài vài tuần tới vài tháng, ấu trùng giun chết, và bệnh nhân khỏi tự phát, thường không có di chứng. Tuy nhiên, một số trường hợp tử vong đã được ghi nhận.
Phòng ngừa bệnh bằng kiểm soát đàn chuột; nấu ốc, tôm, cá và cua trong 5 phút hoặc làm đông lạnh (- 15°C trong 24 giờ); và xem kỹ loại bỏ ốc bám trên rau trước khi ăn. Rửa rau không loại trừ hết được các ấu trùng trong nhơt ốc bám trên lá.
Bài viết cùng chuyên mục
Nhiễm Leishmania da
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Bệnh giun đũa
Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Nhiễm sán dây
Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.
Bệnh giun xoắn
Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Bệnh nang chùm
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.
Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)
Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh giun lươn
Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.
Bệnh giun Gnathostoma
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.