- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Bệnh giun chỉ Loa loa
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh giun chỉ loa loa là một bệnh mạn tính do giun chỉ loa loa gây nên. Bệnh xuất hiện ở người và khỉ ở những vùng rừng đầm lầy nhiều mưa Tây Phi, từ Nigeria đến Angola, và cả vùng lưu vực sống Congo ở Trung Phi, về phía Đông tới Tây Nam Sudan và Tây Uganda. Ước tính có 3 - 13 triệu người bị nhiễm bệnh.
Giun trưởng thành sống trong tổ chức dưới da tới 12 năm. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng, các ấu trùng này đi vào máu, sau đó được các côn trùng trung gian là ruồi cái hút máu ban ngày, loài chrysops cái hút máu. Khi ruồi hút máu lần tiếp theo, ấu trùng giun có thể gây nhiễm cho vật chủ mới hoặc gây bội nhiễm. Thời gian cho giun trưởng thành và ấu trùng mới xuất hiện là 6 tháng tới vài năm.
Triệu chứng và dấu hiệu
Nhiều bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng. Ở những người có triệu chứng, giun (giun cái 4 - 7 cm x 0,5 mm) xuất hiện từng thời điểm ở dưới da hoặc kết mạc, qua dấu hiệu phù một bên chi, hoặc phủ Calabar. Phủ Calabar là phản ứng phủ dưới da đường kính 3 - 10 cm, ấn không lõm, không đỏ ngoài da, đôi khi đi kèm với sốt nhẹ, đau tại chỗ, và ngứa. Tổn thương phù có thể dịch chuyển vài centimet trong 2 - 3 ngày hoặc dừng ở một chỗ trước khi thuyên giảm. Sau những khoảng thời gian không nhất định, chúng lại tái xuất hiện ở chỗ cũ hoặc một nơi khác, nhưng mỗi lần chỉ ở một chỗ. Khi ở gần các khớp, hoạt động của khớp có thể tạm thời bị hạn chế. Giun di trú qua mắt có thể không gây triệu chứng, hoặc có thể gây đau, viêm kết mạc nặng và phù mi mắt. Giun trưởng thành đang chết dần có thể tạo thành các nốt nhỏ hoặc áp xe vô khuẩn tại chỗ, giun chết có thể bị vôi hóa, và phát hiện được trên phim X quang.
Ấu trùng trong máu không gây các triệu chứng. Tuy nhiên, đôi khi chúng xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương và có thể gây viêm não, viêm tủy, hoặc co giật kiểu Jackson; các ấu trùng còn có thể gây các tổn thương và biến chứng trong võng mạc, tim, phổi, và các tổ chức khác.
Những người bản địa nói chung có thể bệnh nhẹ hoặc không có triệu chứng nhưng có ấu trùng trong máu và xét nghiệm huyết thanh dương tính. Tuy nhiên, ở những người đến từ ngoài vùng dịch tễ, bệnh thường biểu hiện bằng các triệu chứng rối loạn miễn dịch nặng (phù Calabar nặng và thường gặp, tăng số lượng bạch cầu và bạch cấu ái toan, tăng gamma globulin trong máu, tăng IgE hỗn hợp) và thường xét nghiệm huyết thanh dương tính nhưng không phát hiện được ấu trùng trong máu.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Chẩn đoán đặc hiệu dựa trên việc tìm thấy ấu trùng đặc trưng trong các bệnh phẩm máu lây vào ban ngày (10 giờ sáng đến 4 giờ chiều) bằng các phương pháp cô đặc để tăng độ nhạy; các phương pháp này là (1) lam giọt đặc, (2) cô đặc Knott, và (3) lọc Nuclepore. Chẩn đoán định hướng để điều trị dựa trên phù Calabar hoặc giun di trú qua mắt, tiền sử cư ngụ ở vùng dịch tễ, và số lượng bạch cầu ái toan tăng cao (40% hoặc hơn). Các xét nghiệm huyết thanh học có thể dương tính, nhưng phản ứng chéo xảy ra với các bệnh nhiễm giun chỉ khác, và đôi khi với nhiễm giun tròn.
Điều trị và tiên lượng
Các chi tiết về sử dụng thích hợp diethylcarbamazin (thuốc lựa chọn diệt cả ấu trùng và giun trưởng thành) xin xem trong các tài liệu tham khảo, do các tác dụng phụ xuất hiện khi ấu trùng chết có thể nặng, đôi khi có viêm não có khả năng gây tử vong. Liều dùng là 50 mg một lần (ngày thứ 1), 50 mg ba lần/ngày (ngày thứ 3), và 3 mg/kg ba lần/ngày (ngày thứ 4 - 21). Một liệu trình điều trị chữa khỏi khoảng 50% số bệnh nhân; ba liệu trình là 90%. Các phản ứng thường xảy ra với số lượng ấu trùng trước điều trị lớn hơn 25/µl. Lọc tế bào (cytapheresis) đã được sử dụng để làm giảm số lượng giun trước khi bắt đầu dùng diethylcarbamazin. Prednison đôi khi được chỉ định để làm giảm các phản ứng. Phẫu thuật lây giun trưởng thành từ mắt hoặc da không có chỉ định. Khi ivermectin được sử dụng để điều trị cho 1,1 triệu người bị nhiễm giun chi onchocerca có nhiễm giun chỉ Loa loa tiềm tàng, 28 trường hợp phản ứng thần kinh đã xuất hiện (một vài trường hợp nghiêm trọng) do ấu trùng của Loa loa chết. Các phản ứng này có nguy cơ cao khi lượng ấu trùng của giun chỉ loa loa trên 8/µl và nguy cơ rất cao khi lượng ấu trùng trên 50/µl.
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu. Điều trị dự phòng diethylcarbamazin, 300 mg mỗi tuần, có thể có ích, nếu nguy cơ phơi nhiễm cao. Tuy nhiên biện pháp này không có chỉ định cho những người du lịch thoảng qua và những người có thể mắc một bệnh giun chỉ bất kỳ nào trước đó.
Phần lớn các trường hợp bệnh có diễn biến lành tính, nhưng một số có các triệu chứng nặng và hạn chế vận động tạm thời. Tiên lượng rất tốt khi điều trị.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh giun xoắn
Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.
Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)
Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó
Bệnh do Trypanosoma châu mỹ
Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)
Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Bệnh do nhiễm Giardia
Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Sốt rét
Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.