Bệnh giun Gnathostoma

2016-05-28 10:59 AM

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh giun gnathostoma, phần lớn do ấu trùng giun tròn Gnathostoma spinigerum gây ra, ít khi có căn nguyên là các loại gnathostoma khác. Bệnh gặp nhiều nhất ở Thái Lan và Nhật Bản, nhưng cũng được thông báo ở Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico, Ecuador, Israel, và Đông Phi. Ở Hoa Kỳ, mặc dù G. spinigerum đôi khi được tìm thấy ở chồn, bệnh chưa gặp ở người. Trứng giun thải theo phân của vật chủ cuối cùng là chó và mèo hoang và nuôi trong nhà, có khả năng lây nhiễm cho động vật chân đốt (bọ chét nước). Các vật chủ thứ phát ăn các động vật chân đốt này và các ấu trùng giun tạo kén trong các mô của các vật chủ này; người bị nhiễm bệnh khi nuốt phải các ấu trùng trong các thức ăn còn sống, ướp muối hoặc nấu chưa chín từ cá nước ngọt, gà hoặc một loại chim khác, ếch, hoặc lợn. Sự nhiễm bệnh cũng xảy ra khi nuốt, phải các động vật chân đốt trong nước.

Trong vòng 24 - 48 giờ, ấu trùng xâm nhập qua thành ruột có thể gây đau cấp tính vùng thượng vị, nôn, nổi mẩn ngoài da, và tăng bạch cầu ái toan. Sau đó giun di trú đến mô dưới da và các mô khác nhưng không trưởng thành được. Biểu hiện thường gặp nhất là tổn thương phủ và ngứa dưới da, kích thước tới 25 cm, đôi khi đi kèm với cảm giác đau nhói. Trong thời gian vài tuần tới vài năm, khối phù này có thể tồn tại ở một chỗ trong vài ngày hoặc vài tuần, hoặc di chuyển không ngừng. Đôi khi có thể nhìn thấy giun ở dưới da.

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn, và phù họng kèm khó thở đã được thông báo. Giun xâm nhập vào não có thể dẫn đến viêm não - màng não tăng bạch cầu ái toan hoặc xuất huyết dưới nhện. Giun xâm nhập vào tủy sống có thể dẫn đến viêm tủy hoặc bệnh lý rễ thần kinh.

Chẩn đoán cuối cùng đôi khi chỉ xác định được qua phẫu thuật lấy giun nếu giun xuất hiện gần bề mặt da. Tăng cao bạch cầu ái toan thường gặp, trừ những trường hợp giun nằm trong hệ thần kinh trung ương. Chẩn đoán huyết thanh học bằng phương pháp cố định miễn dịch (immunoblot) hoặc ELISA tỏ ra có triển vọng. Các test da và xét nghiệm huyết thanh học khác là không tin cậy.

Điều trị bằng albendazol có thể có hiệu quả. Trong số các ca bệnh được chẩn đoán định hướng, 94 trên 100 người có biểu hiện khỏi bệnh sau một liệu trình điều trị mỗi ngày 400 mg hoặc 800 mg (chia nhiều liều) trong 21 ngày. ấu trùng chết dần trong 1- 2 tuần. Ivermectin được thông báo có hiệu quả ở động vật. Điều trị prednisolon từng đợt có tác dụng giảm tạm thời các triệu chứng.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Bệnh giun lươn

Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.