Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis

2016-05-26 11:09 AM

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhiễm Clonorchis smensis - sán lá gan Trung Quốc - lưu hành ở các vùng của Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc; Đài Loan, Đông Nam Á, và phần viễn đông của nước Nga. Trên 20 triệu người bị nhiễm bệnh. Nhiễm opisthorchis là do các loại sán thuộc giống opisthorchis gây nên, phần lớn là o. felineus (Trung, Đông, Nam Châu Âu; Đông Á; Đông Nam Á; Ấn Độ) hoặc o. viverrini (Thái Lan; Lào; Việt Nam), về mặt lâm sàng và dịch tễ học, nhiễm opisthorchis và nhiễm clonorchis rất giống nhau.

Một số loài ốc bị nhiễm bệnh khi ăn phải trứng sán thải vào nước theo phân của người và súc vật. Các thể ấu trùng giải phóng khỏi ốc; xâm nhập vào cơ của hàng loạt các loài cá nước ngọt, và tạo thành kén như ấu trùng nang (metacecariae). Động vật hoang dại hoặc gia súc ăn cá - bao gồm cả chó, mèo và lợn - và người duy trì chu kỳ sống của sán. Người bị bệnh khi ăn các loại cá này ở dạng sống hoặc chưa nấu chín. Làm gỏi cá, hun khói hoặc phơi khô có thể không giết được các âu trùng nang. Trong cơ thể người các cá thể sán ra khỏi kén trong tá tràng và di chuyển theo đường mật đến các nhánh đường mật cỡ vừa và nhỏ, nhưng cũng đi vào các đường mật lớn hơn và túi mật; phát triển và tồn tại ở đó cho đến hết đời (15 - 25 năm), thải trứng theo mật. Về kích thước sán dài 7 - 20 x 1,5 - 3 mm. Trong giai đoạn bệnh mạn xuất hiện dày đường mật tiến triển, xơ rìa đường mật, giãn đường mật; ứ mật và nhiễm trùng thứ phát. Xơ hóa nhẹ xuất hiện trong hệ thống tĩnh mạch cửa.

Phần lớn bệnh nhân chỉ có một vài con sán và không có triệu chứng. Trong số những bệnh nhân có triệu chứng, có 2 loại hội chứng cấp tính và mạn tính. Các triệu chứng cấp tính xuãt hiện sau khi sán chưa trưởng thành đi vào đường mật và có thể kéo dài tới vài tuần. Các biểu hiện bao gồm mệt mỏi, sốt nhẹ, gan to, mềm, đau ở vùng gan hoặc thượng vị, nổi mẩn ngoài da, đau khớp, tăng bạch cầu, tăng bạch cầu ái toan, tăng alanin aminotransferase huyết thánh và hoàng đảm. Hội chứng cấp thường khó chẩn đoán, do trứng sán không xuất hiện trong phân trước 3 - 4 tuần sau khi các triệu chứng khởi phát.

Trong giai đoạn mạn tính, các biểu hiện bao gồm mệt mỏi, chán ăn, đau thượng vị, ỉa chảy, sốt nhẹ kéo dài, đau hạ sườn phải thất thường, nhạy cảm đau vùng gan, và gan to tiến triển; các xét nghiệm chức năng gan bình thường trừ các ca bệnh nặng.

Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa. Mặc dù bắt đầu bằng các ổ tại chỗ quá trình này dần dần có thể dẫn đến phá hủy nhu mô gan, xơ hóa, và xơ gan cùng hoàng đảm và cổ trướng ở một số bệnh nhân. Viêm túi mật mạn tính, sỏi mật, túi mật giãn và giảm chức năng có thể xuất hiện. Các con sán còn có thể di trú vào ông tụy, gây viêm tụy cãp hoặc sỏi tụy. Ung thư đường mật được thấy là có liên quan đến nhiễm sán clonorchis và opisthorchis kéo dài.

Chẩn đoán dựa trên việc tìm thấy các trứng sán đặc trưng trong phân (có thể cần xét nghiệm nhiều lần) hoặc dịch tá tràng (độ nhạy đạt gần 100%). Trong giai đoạn mạn, số lượng bạch cầu thay đổi theo tình trạng của bệnh; có thể có tăng bạch cầu ái toan. Trong bệnh nhiễm sán nặng, số lượng trứng trong một gram phân có thể không phản ánh số lượng sán thực nhiễm. Trong giai đoạn bệnh mạn tiến triển, (1) các xét nghiệm chức năng gan sẽ phản ánh tổn thương nhu mô; (2) CT và siêu âm có thể cho thấy tình trạng giãn lan toả các đường mật nhỏ trong gan trong khi các đường mật lớn trong và ngoài gan bình thường hoặc giãn rất nhẹ, và (3) chụp đường mật qua gan có thể cho thấy hệ thống đường mật bị chít hẹp và giãn xen kẽ, với hình ảnh sán là các bóng cản.

Trong số các xét nghiệm huyết thanh học đã được đánh giá, ELISA là phương pháp ưu tiên (độ nhạy 77%); tuy nhiên trừ khi sử dụng kháng thể đơn dòng đặc hiệu, phản ứng chéo thường gặp với nhiễm các loại sán lá và sán dây khác, lao và ung thư gan.

Thuốc điều trị lựa chọn là praziquantel. Với liều 25 mg/kg ba lần /ngày, trong 2 ngày (cách nhau 4 - 6 giờ), tỷ lệ khỏi trên 95% có thể dự báo cho bệnh sán clonorchis. Điều trị một ngày có thể là đủ cho nhiễm sán opisthorchis. Albendazol, ở liều 10 mg/kg hai lần/ngày trong 7 ngày, tỏ ra ít hiệu quả hơn và cần điều trị kéo dài hơn mebendazol, ở liều 30 mg/kg trong 20 - 30 ngày, đôi khi cũng có tác dụng.

Bệnh ít khi gây tử vong, nhưng bệnh nhân ở giai đoạn bệnh tiến triển và rối loạn chức năng gan dễ dàng mắc các bệnh khác. Tiên lượng tốt đối với bệnh nhẹ và vừa.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Bệnh giun lươn

Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân, là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun.

Bệnh giun chỉ Onchocera

Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis

Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Nhiễm giun anisakia

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Bệnh nang chùm

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Nhiễm sán dây

Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)

Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Nhiễm leishmania nội tạng

Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.