Bệnh thoái khớp (hư khớp)

2016-12-14 12:52 PM

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Tình trạng thoái hóa không kèm những dấu hiệu toàn thân.

Đau giảm khi nghi ngơi, cứng khớp buổi sáng nhẹ, biểu hiện viêm khớp là tối thiểu.

Dấu hiệu X quang: hẹp khe khớp, mọc gai xương, đặc xương dưới sụn, các hốc nhỏ đầu xương.

Thường thứ phát sau những bệnh lý khác.

Nhận định chung

Thoái khớp hay hư khớp là một bệnh lý thường gặp, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc và ở tất cả các vùng địa lí. Ở Mỹ có ít nhất 20 triệu người lớn mắc bệnh và đến tuổi 40 khoảng 90% dân số sẽ có những dấu hiệu của thoái khớp trên X quang ở những khớp chịu tải. Tỷ lệ mắc bệnh có triệu chứng cũng tăng lên theo tuổi.

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Bệnh thoái khớp (hư khớp) được chia làm 2 loại: (1) Thoái hóa tiên phát, chủ yếu xuất hiện ở khớp ngón xa (hạt Heberden) và sau đó là các khớp ngón gàn (hạt Bouchard), khớp bàn ngón và khớp ngón gần của ngón tay cái, khớp háng, khớp đầu gối, khớp bàn ngón chân cái, cột sống cổ và cột sống thắt lưng; và (2) thoái hóa thứ phát, xuất hiện ở bất kì khớp nào, hậu quả của tổn thương khớp do những nguyên nhân tại khớp (như viêm khớp dạng thấp) hay ngoài khớp. Những tổn thương này có thể là cấp tính, chẳng hạn gẫy xương, hoặc mạn tính do khớp phải làm việc quá sức, do một số bệnh rối loạn chuyển hóa (ví dụ cường cận giáp trạng, bệnh nhiễm sắc tố sắt, bệnh nhiễm sắc tố ochronose) hay những bệnh lý thần kinh (bệnh tabet).

Về mặt giải phẫu bệnh, ban đầu sụn khớp trở nên thô ráp, cuối cùng là mỏng đi và tạo nên các gai xương ở rìa của diện khớp. Màng hoạt dịch dầy lên, các hình lông phì đại. Mặc dù vậy khớp không bao giờ bị dính hoàn toàn và màng hoạt dịch không bị kết dính. Biểu hiện viêm rõ đôi khi có gặp ở một số bệnh nhân bị tổn thương cấp các khớp liên đốt ngón tay (hạt Heberden).

Triệu chứng cơ năng và thực thể

Bệnh khởi phát từ từ, ban đầu có dấu hiệu cứng khớp song hiếm khi kéo dài quá 15 phút. Sau đó xuất hiện đau khớp, tăng lên khi vận động kéo dài và giảm khi nghỉ ngơi. Biến dạng khớp thường không có hoặc rất nhẹ, tuy nhiên đôi khi thấy phì đại xương rõ. Tình trạng co gấp hoặc biến dạng khớp gối ít gặp. Bệnh không gây dính khớp song thường gây hạn chế vận động khớp, đôi khi người bệnh cảm thấy tiếng lạo xạo trong khớp. Tràn dịch khớp và những biểu hiện viêm khớp khác thường nhẹ. Không có triệu chứng toàn thân.

Xét nghiệm

Tốc độ lắng máu không tăng, các xét nghiệm viêm thường là bình thường.

Thăm dò hình ảnh

Trên X quang có biểu hiện hẹp khe khớp, các rìa của diện khớp thường nhọn, mọc gai ở đầu xương, đặc xương dưới sụn. Ngoài ra có thể thấy các hốc nhỏ ở đầu xương.

Chẩn đoán phân biệt

Bởi vì biểu hiện viêm khóp thường rất nhẹ và không có những triệu chứng toàn thân cho hên bệnh thoái khớp rất ít khi nhầm lẫn với bệnh viêm khớp khác. Vị trí tổn thương các khớp ở bàn tay giúp chúng ta phân biệt thoái khớp (hư khớp) và viêm khớp dạng thấp. Thoái khớp chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp ngón xa và các ngón gần, ít gặp ở khớp cổ tay và khớp bàn ngón tay. Trong khi đó viêm khớp dạng thấp lại chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp cổ tay và khớp bàn ngón tay, ít gặp ở các khớp ngón xa. Hơn nữa, trong thoái khớp, khớp to ra do phì đại của xương nên thường cứng và mát; trái lại khớp sưng trong viêm khớp dạng thấp thường mềm và nóng. Cũng cần phải thận trọng không nên cho rằng mọi triệu chứng ở xương khớp đều do khớp bị thoái hóa, đặc biệt đối với cột sống, bởi vì đi kèm với thoái khớp có thể có di căn ung thư, loãng xương, đa u tủy xương hoặc những bệnh khác.

Phòng bệnh

Giảm cân nặng ở phụ nữ có thể làm giảm nguy cơ mắc các triệu chứng của thoái hóa khớp gối.

Điều trị

Các biện pháp chung

Giáo dục, nghỉ ngơi, chế độ ăn, tập luyện và các liệu pháp vật lý là những vấn đề quan trọng. Chương trình đi bộ được sự hướng dẫn có thể giúp những bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối cải thiện chức năng vận động mà không làm cho khớp bị đau thêm.

Các thuốc giảm đau và chống viêm

Với nhiều bệnh nhân dùng acetaminophen với liều 2,6 - 4g/ngày thương có hiệu quả và ít gây độc tính hơn so với những thuốc chống viêm giảm đau không steroid (CVKS) khác. Nếu dùng acetaminophen và những biện pháp không dùng thuốc mà không có tác dụng, có thể dùng salicylat hoặc một thuốc CVKS khác. Thường không cần thiết phải dùng salicylat liều cao như những bệnh khớp có viêm. Cần thăm khám định kì để quyết định có nên tiếp tục dùng thuốc cho bệnh nhân thoái khớp hay không. Đối với nhiều bệnh nhân, có thể giảm liều thuốc, thậm chí chỉ nên dùng trong những đợt tiến triển.

Các biện pháp chỉnh hình

Các phương pháp chỉnh hình có thể giải quyết một số bất thường phát sinh, biến dạng khớp, chân ngắn chân dài và khi diện khớp bị phá hủy nặng.

Ngoại khoa

Thay khớp háng toàn bộ là một phương pháp rất tốt để giảm các triệu chứng và cải thiện chức năng cho những khớp bị tổn thương nặng có hạn chế nhiều việc đi lại và đau cả lúc nghi ngơi đặc biệt là vào ban đêm. Thay khớp gối thường cũng rất có hiệu quả. Mặc dù phẫu thuật dưới nội soi trong điều trị thoái hóa khớp gối rất hay được làm song hiệu quả lâu dài của nó vẫn chưa được rõ ràng.

Tiên lượng

So với viêm khớp dạng thấp, thoái hóa thường ít khi gây mất khả năng vận động, song các triệu chứng có thể khá nặng nề và chức năng vận động có thể bị hạn chế đáng kể (đặc biệt trong trường hơp thoái hóa khớp háng, gối, cột sống cổ). Việc điều trị thích hợp có thể làm giảm các triệu chứng và cải thiện chức năng vận động.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh gút

Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.

Bệnh co thắt Dupuytren

Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.

Viêm khớp trong bệnh sarcoid

Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.

Xơ cứng bì toàn thể

Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.

Ban xuất huyết Henoch-Schonlein

Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.

Bệnh Cryoglobulin huyết

Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.

Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ

Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot

Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.

Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp

Biểu hiện thấp khớp trong ung thư

Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.

Viêm khớp mãn tính thiếu niên

Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.

Viêm bao thanh dịch

Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương

Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.

Hội chứng Sjogren

Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Bệnh u hạt Wegener

Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Hội chứng Reiter

Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.

Bệnh viêm mô sợi

Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.

Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương

Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.

Thấp khớp hay tái phát

Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.

Hội chứng đường hầm cổ tay

Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.