- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Viêm khớp do lậu
Viêm khớp do lậu
Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Triệu chứng ban đầu là đau nhiều khớp di chuyển.
Viêm bao hoạt dịch gân là dấu hiệu thường gặp nhất.
Viêm một khớp mủ trong 50% trường hợp.
Phát ban đặc trưng trên da.
Thường gặp nhất ở phụ nữ trẻ trong những đợt hành kinh hoặc mang thai.
Thường vắng mặt các triệu chứng của viêm niệu đạo.
Đáp ứng rất tốt với kháng sinh.
Nhận định chung
Nhiễm khuẩn do lậu phát tán là nguyên nhân thông thường nhất của viêm khớp nhiễm khuẩn ở những vùng đô thị lớn. Ngược lại với viêm khớp không do lậu, viêm khớp do lậu lại hay gặp ở những cá thể khoẻ mạnh. Mặc dù vậy, yếu tố thể tạng có ảnh hưởng đến biểu hiện của bệnh: viêm khớp do lậu thường gặp ở nữ gấp 2 - 3 lần so với nam giới, đặc biệt hay gặp trong các kì hành kinh và khi mang thai, hiếm gặp ở tuổi sau 40. Viêm khớp do lậu cũng thường thấy ở những người đồng tính luyến ái nam, họ có tỉ lệ cao bị viêm họng và viêm trực tràng do lậu không triệu chứng, từ đó dẫn đến nhiễm khuẩn phát tán. Một số dấu hiệu của tình trạng nhiễm khuẩn phát tán do lậu có thể do phản ứng miễn dịch với những mảnh không có khả năng sống của vách tế bào vị khuẩn; điều này có thể giải thích tại sao thường không thể nuôi cấy vi khuẩn từ những tổn thương da và khớp. Với những trường hợp nhiễm trùng phát tán do lậu tái phát nên làm xét nghiệm để phát hiện tình trạng suy giảm bẩm sinh các thành phần của bổ thể, đặc biệt là C7 và C8.
Lâm sàng
Bệnh bắt đầu bằng những đợt đau nhiều khớp với tính chất di chuyển ở những khớp cổ tay; gối, cổ chân, khuỷu kéo dài từ 1 - 4 ngày. Sau đó có thế xuất hiện hai khả năng: khả năng thứ nhất (60% bệnh nhân) đặc trưng bởi viêm bao hoạt dịch gân và khả năng thứ hai (40%) là viêm một khớp mủ mà thường gặp nhất là khớp gối. Gần một nửa bệnh nhân có sốt và dưới 1/4 bệnh nhân có triệu chứng ở đường tiết niệu sinh dục. Hầu hết bệnh nhân sẽ có tổn thương da không gây triệu chứng song có tính chất đặc trưng cao gồm từ 2 - 10 mụn mủ hoại tử nhỏ, xuất hiện ở các chi, đặc biệt là gan tay và gan chân.
Xét nghiệm
Bạch cầu máu ngoại vi trung bình 10.000/µL và tăng ở dưới 1/3 bệnh nhân. Mặc dù vậy, số lượng bạch cầu trong dịch khớp thường trên 50.000/µL. Nhuộm tỉ lệ Gram có tỉ lệ dương tính ở 1/4 trường hợp và nuôi cấy dương tính ở dưới 1/2 số bệnh nhân. Cấy máu dương tính ở 40% bệnh nhân có viêm màng hoạt dịch và gần như không bao giờ thấy ở bệnh nhân viêm khớp mủ. Cấy niệu đạo, trực tràng, họng nên làm ở tất cả các bệnh nhân vì kết quả thường dương tính ở những bệnh nhân không có các triệu chứng tại chỗ. Để cấy lậu cầu được thuận lợi nên chuyển nhanh bệnh phẩm tới phòng xét nghiệm vi sinh, cấy trong những môi trường thích hợp và ủ khí CO2.
Thăm dò hình ảnh
X quang thường bình thường hoặc chỉ thấy sưng nề phần mềm.
Chẩn đoán phân biệt
Hội chứng Reiter có thể gây ra viêm một khớp cấp ở những người trẻ, nhưng có thể được phân biệt bởi nuôi cấy âm tính, viêm khớp cùng chậu và không đáp ứng với kháng sinh. Bệnh Lyme có tổn thương khớp gối thường ít cấp tính hơn, nuôi cấy âm tính, trước đó có thể có tiếp xúc với ve và có những ban đặc trưng. Xét nghiệm dịch gút sẽ loại trừ được gút, giả gút và viêm khớp nhiễm khuẩn không đo lậu. Thấp khớp cấp và bệnh sarcoid có thể gây bao hoạt dịch gân với tính chất di chuyển song có những đặc điểm khác để phân biệt. Viêm nội tâm mạc nhiểm khuẩn kèm theo viêm khớp nhiễm khuẩn có thể nhầm với nhiễm khuẩn phát tán do lậu.
Điều trị
Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị. Trước đây người ta thường cho điều trị ngoại trú, song do tỷ lệ lận cầu kháng penicillin ngày càng cao cho nên hiện nay người ta khuyên nên điều trị nội trú lúc ban đầu. Khoảng 4 - 5% trong tất cả các chủng lậu cầu sản xuất được men β-lactamase gây kháng penicillin, 15 - 20% các chủng lậu cầu có các chuỗi nhiễm sắc thể gây kháng tương đổi vớí penicillin. Do đó nên bắt đầu điều trị bằng ceftriaxon, 1 g/ngày, tiêm tĩnh mạch trong 7 - 10 ngày. Nếu chẩn đoán viêm khớp do lậu và nhạy cảm với penicillin, cho amoxicillin, 500 mg uống, bốn lần mỗi ngày, điều trị ngoại trú trong vòng 10 - 14 ngày.
Tiên lượng
Nhìn chung, viêm khớp do lậu đáp ứng rất nhanh trong vòng 24 - 48 giờ sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh cho nên việc chọc khớp hàng ngày hiếm khi cần thiết: Bệnh thường khỏi hoàn toàn.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh u hạt Wegener
Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.
Thấp khớp hay tái phát
Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.
Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Lao xương khớp
Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.
Viêm đa cơ - viêm da cơ
Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.
Viêm lồi cầu
Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.
Viêm nút đa động mạch
Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.
Hội chứng Behort
Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.
Viêm khớp do virus
Viêm đa khớp có thể phối hợp với viêm gan B và điển hình thường xuất hiện trước khi bắt đầu có vàng da, nó cũng có thể xuất hiện trong viêm gan không vàng da.
Những chấn thương do chạy nhảy
Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn
Viêm khớp trong bệnh sarcoid
Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.
Viêm bao thanh dịch
Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm
Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.
Xơ cứng bì toàn thể
Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Viêm quanh khớp vai
Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.
Hội chứng Sjogren
Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.
Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV
Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.
Biểu hiện thấp khớp trong ung thư
Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.
Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu
Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.
Viêm nhiều sụn tái phát
Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.
