Lao xương khớp

2017-01-05 04:57 PM

Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Một bệnh gặp ở trẻ em và người già hoặc những người nhiễm HIV.

Trong hầu hết các trường hợp, chỉ tổn thương xương khớp tại một vị trí.

Cột sống - đặc biệt đoạn cột sống lưng - hoặc khớp gối là những vị trí thường gặp nhất.

Những bất thường trên X qụang phổi chỉ thấy ở dưới một nửa số bệnh nhân.

Nhân định chung

Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra. Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu từ một ổ tổn thương tiên phảt ở đường hô hấp; nó có thể xuất hiện rất sớm sau nhiễm lao tiên phát hoặc nhiều năm, giống như một bệnh được tái hoạt hóa. Lao cột sống lưng hoặc thắt lưng (bệnh Pott) thường xuất hiện mà không kèm theo nhiễm lao ngoài cột sống. Đây là một bệnh của trẻ em ở những nước đang phát triển và là bệnh của những người già ở Mỹ. Lao khớp ngoại vi gần như luôn luôn xuất hiện ở một khớp, thông thường nhất là khớp gối. Lao ngoài khớp phối hợp chỉ có ở 20% trường hợp.

Lâm sàng

Các triệu chứng nhìn chung xuất hiện từ từ và không kèm theo những biểu hiện toàn thân như sốt, ra mồ hôi, nhiễm độc hoặc mệt lả. Đau lúc đầu có thể nhẹ, tăng lên về ban đêm, có thể kèm thep hiện tượng cứng khớp. Khi bệnh tiến triển hạn chế vận động khớp trở nên rõ ràng do sự co cứng cơ và phá hủy khớp. Khớp gối là khớp ngoại vi thường bị nhất. Các triệu chứng của lao phổi có thể có.

Thăm khám tại chỗ ở giai đoạn sớm thường chỉ thấy tăng nhậy cảm với đau, sưng phần mềm, tràn dịch khớp và tăng nhiệt độ da ở vùng bị bệnh. Khi bệnh tiến triển và không được điều trị, teo cơ và biến dạng khớp trở nên rõ ràng. Tổn thương áp xe hóa và do tự nhiên làm xuất hiện các xoang. Xương cột sống bị phá huỷ dần tạo ta một bươus gù, đặc biệt ở vùng lưng - thắt lưng.

Xét nghiệm

Chẩn đoán chính xác khi tìm thấy trực khuẩn kháng cồn toan trong dịch khớp, mủ hoặc bệnh phẩm ở tổ chức. Sinh thiết tổn thương xương, màng hoạt dịch, hoặc hạch lympho lân cận để phát hiện tế bào học đặc trưng của hoại tử bã đậu và tế bào khổng lồ.

Thăm dò hình ảnh

Có một thời kì khá dài từ khi bắt đầu các triệu chứng cho tới khi xuất hiện các dấu hiệu đầu tiên trên X quang. Những thay đổi sớm nhất của viêm khớp do lao là sưng phần mềm và giãn rộng bao khớp do tràn dịch. Sau đó là hiện tượng tiêu xương gây ra mỏng các bè xương, vỏ xương mỏng đi và ống tủy rộng ra. Khi bệnh khớp tiến triển, sụn khớp bị phá hủy, ở cả khớp ngoại vi và cột sống, làm hẹp các khe khớp và bào mòn diện khớp từng ổ, đặc biệt tại các rìa khớp. Khi tổn thương giới hạn ở xương, nhất là tại phần xốp của vùng hành xương, trên X quang có thể thấy một hoặc nhiều hốc, bao bọc xung quanh là tổ chức xương xơ hóa. Trong lao cột sống chụp quét CT có ích để phát hiện những tổn thương phối hợp của nhiễm khuẩn phần mềm cạnh cột sống (như áp xe lạnh, tổn thương lan vào màng cứng).

Chẩn đoán phân biệt

Lao hệ thống xương khớp cần phải phân biệt với tất cả những nhiễm khuẩn mạn tính hoặc bán cấp khác, viêm khớp dạng thấp, gút và đôi khi có bệnh loạn sản xương, ở cột sống có thể phải phân biệt với khối u di căn.

Biến chứng

Phá hủy xương hoặc khớp có thể xuất hiện sau vài tuần hoặc vài tháng nếu không điều trị đầy đủ. Biến dạng do phá hủy khớp, hình thành áp xe lan vào tổ chức phần mềm kế cận và tạo thành các xoang là những biến chứng thường gặp. Liệt hai chi dưới là một biến chứng nặng nề nhất của lao cột sống. Khi những tổn thương khớp nặng đã lành, hiện tượng xơ hóa và dính khớp xuất hiện.

Điều trị

Các biện pháp chung

Chăm sóc toàn thân đặc biệt quan trọng khi phải nằm lâu; cần có sự chăm sóc của những điều dưỡng viên có kinh nghiệm.

Hoá trị liệu

Do có hiện tượng kháng thuốc, nên người ta khuyên nên bắt đầu điều trị lao xương bằng 4 thứ thuốc sau: isoniazid 300 mg/ngày; rifampin 600 mg/ngày; pyrazinamid 25 mg/kg/ngày và ethambutol 15 mg/kg/ngày. Nếu vi khuẩn phân lập nhậy cảm với isoniazid và rifampin, có thể ngừng ethambutol và điều trị duy trì bằng pyrazinamid trong 2 tháng. Isoniazid và rifampin được tiếp tục trong tổng thời gian 6 tháng. Có thể điều trị khỏi bệnh mà không cần phải phẫu thuật trong hầu hết các trường hợp, ngay cả khi bệnh đã lan rộng.

Điều trị ngoại khoa

Những trường hợp nhiễm khuẩn cấp mà viêm màng hoạt dịch là triệu chứng nổi bật, có thể điều trị bảo tồn, ít nhất cũng là lúc ban đầu. Bất động bằng nẹp hoặc bó bột, chọc hút và hóa trị liệu có thể đủ để khống chế nhiễm khuẩn. Những phương pháp này đặc biệt nên áp dụng trong điều trị nhiễm khuẩn những khớp lớn chi dưới ở trẻ em trong giai đoạn sớm của bệnh. Phẫu thuật cắt bỏ màng hoạt dịch có thể có ích trong những trường hợp có tổn thương phì đại, ít cấp tính của bao gân, bao thanh dịch và khớp.

Bài viết cùng chuyên mục

Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV

Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.

Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu

Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.

Viêm đa cơ - viêm da cơ

Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.

Hoại tử xương vô khuẩn

Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.

Biểu hiện thấp khớp trong ung thư

Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.

Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương

Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.

Viêm khớp trong bệnh sarcoid

Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot

Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.

Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương

Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.

Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm

Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.

Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ

Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.

Viêm khớp do virus

Viêm đa khớp có thể phối hợp với viêm gan B và điển hình thường xuất hiện trước khi bắt đầu có vàng da, nó cũng có thể xuất hiện trong viêm gan không vàng da.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Thấp khớp hay tái phát

Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.

Viêm khớp và các bệnh viêm ruột

Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.

Hội chứng Reiter

Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.

Viêm khớp vảy nến

Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.

Bệnh viêm cột sống dính khớp

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.

Hội chứng Behort

Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.

Viêm nhiều sụn tái phát

Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.

Ban xuất huyết Henoch-Schonlein

Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.

Bệnh Cryoglobulin huyết

Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.

Bệnh u hạt Wegener

Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.

Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ

Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.

Viêm nút đa động mạch

Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.

Hội chứng Sjogren

Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Xơ cứng bì toàn thể

Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Viêm khớp mãn tính thiếu niên

Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.

Những chấn thương do chạy nhảy

Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn

Viêm bao thanh dịch

Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.

Loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Tiên lượng phụ thuộc một phần vào giai đoạn bệnh, những tổn thương đã xuất hiện và phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh lý nội tạng phôi hợp. Điều trị sớm, khả năng hồi phục sẽ tôt hơn.

Bệnh co thắt Dupuytren

Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.

Hội chứng đường hầm cổ tay

Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.

Bệnh viêm mô sợi

Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.

Viêm lồi cầu

Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.

Viêm quanh khớp vai

Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.

Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay

Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.

Đau thắt lưng

Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng

Hội chứng đau cổ cánh tay

Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Bệnh gút

Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát

Bệnh thoái khớp (hư khớp)

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp

Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp

Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân